✨Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản

Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản

nhỏ|300x300px| Đường phố ngập tràn tiền quân phiếu chiến tranh Nhật Bản, [[Yangon|Rangoon, 1945.]] Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản, tên chính thức là Đại Đông Á Chiến tranh Quân phiếu (, Dai Tō-A Sensō gunpyō), còn gọi là Tiền chiếm đóng Nhật Bản, là một loại chi phiếu thay tiền của lực lượng quân sự Nhật Bản, thay thế cho các loại tiền nội tệ tại các quốc gia và vùng lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. Khi chiến tranh kết thúc, các loại tiền lưu hành dưới danh nghĩa Nhật Bản ngay lập tức trở thành những tờ giấy lộn. Chúng gồm các loại tiền chiếm đóng được phát hành ở Philippines, Burma (nay là Myanmar), Malaya, Bắc Borneo và Sarawak (nay thuộc Malaysia), Singapore, Brunei, Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia) và một số khu vực thuộc Châu Đại Dương (New Guinea và Quần đảo Solomon và Quần đảo Gilbert). Một lượng lớn tiền tệ đã thu được bởi các lực lượng đồng minh và thường dân vào cuối cuộc chiến; phần nhiều được lưu giữ làm quà lưu niệm thời chiến, và hiện nằm trong các bộ sưu tập tư nhân và bảo tàng.

Lịch sử

Sau khi gây chiến với Trung Quốc, đến năm 1940, người Nhật đã mở rộng phạm vi hoạt động quân sự của họ ở châu Á và đã phát triển đỉnh điểm với cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng cuối năm 1941. Nhật Bản xâm chiếm nhiều nước châu Á, chiếm được nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn và thiết lập chính quyền quân sự.

Sau khi chiếm đóng Philippines, quân đội Nhật đã tịch thu tất cả các loại tiền bản vị mạnh, cả ở cấp nhà nước lẫn cá nhân người dân, và thay thế chúng bằng các chi phiếu được in tại địa phương. Tất cả các chi phiếu đều mang danh nghĩa của chính phủ Đế quốc Nhật Bản, và chúng đều được hứa đảm bảo thanh toán cho người sở hữu nó.

Tháng 2 năm 1942, chính phủ Nhật Bản cho thành lập Ngân hàng Tài chính thời chiếnNgân hàng Phát triển phương Nam. Cả hai tổ chức này đều được quyền phát hành trái phiếu để gây quỹ. Hoạt động chủ yếu của 2 tổ chức tài chính này bao gồm cho vay tài chính đối với các tổ hợp công nghiệp quân sự, mở rộng ra một số tổ hợp công nghiệp khác như nhà máy thủy điện, công ty điện lực, đóng tàu và dầu khí... Ngoài ra, một dịch vụ tài chính quan trọng thứ hai là phát hành các chi phiếu trong các khu vực quân đội Nhật Bản chiếm đóng, và trái phiếu của Ngân hàng Phát triển phương Nam được sử dụng như một quân phiếu de facto. Vào tháng 12 năm 1942, số dư chưa thanh toán của Ngân hàng Phát triển Phương Nam đứng ở mức hơn 470 triệu; đến tháng 3 năm 1945, là hơn 13 tỷ.

Trên thực tế, các quân phiếu này không được bảo đảm bằng chế độ bản vị mà được bảo đảm bằng sức mạnh quân sự. Vì vậy giá trị của chúng trồi sụt theo mức độ thắng lợi của quân Nhật Bản trên chiến trường. Khi Nhật Bản đi vào con đường thất bại, nhằm giữ được khả năng mua sắm tại địa phương, các quân phiếu được in ấn phát hành vô vạ, lạm phát tăng khủng khiếp dẫn đến sự mất giá của các quân phiếu, gây thảm họa kinh tế tại các vùng lãnh thổ Nhật Bản chiếm đóng. Bên cạnh đó, do tác động của lạm phát, người dân tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng có xu hướng cất trữ hàng hóa để trao đổi, và chính phủ quân sự Nhật Bản luôn dùng các biện pháp vũ lực để ép buộc người dân phải bán hàng để đổi lấy các quân phiếu ngày càng vô dụng. Các yếu tố này càng làm trầm trọng hơn mối quan hệ giữa người Nhật và dân địa phương, làm tăng sự phản kháng, dẫn đến sự thất trận nhanh chóng của người Nhật trên các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng.

Vào cuối Thế chiến, quân Nhật liên tục thất bại trên chiến trường, lần lượt đánh mất các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Tuy nhiên, trước khi thất trận, quân đội Nhật thực hiện hành động cuối cùng phá hủy nền kinh tế tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Họ được lệnh phá hủy tất cả các hồ sơ ngân hàng và bất kỳ loại tiền tệ nào còn lại trước khi đầu hàng. Các loại tiền quân phiếu cũng trở nên hoàn toàn vô giá trị sau khi người Nhật thất trận, và hàng tấn loại "tiền" này đã bị đốt cháy.

Sau chiến tranh, một số tổ chức dân sự được thành lập với mục đích yêu cầu chính phủ Nhật Bản phải chịu trách nhiệm bồi thường cho các quân phiếu chiến tranh tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng trước đây. Nhiều cuộc chiến pháp lý ở tòa án chống lại Nhật Bản đã nổ ra cho đến gần đây với các vụ kiện lên tòa án cao nhất của Nhật Bản. Tuy nhiên, cho đến nay, không có một cá nhân nào được bồi hoàn tiền chiếm đóng của Nhật Bản. Theo Hiệp ước San Francisco ký tháng 9 năm 1951, Nhật Bản đã thực hiện bồi thường theo cấp độ quốc gia, không phải cá nhân. Một lượng lớn tiền chiếm đóng của Nhật Bản vẫn tồn tại và hầu hết các quân phiếu này có thể được mua bởi các nhà sưu tập với giá rẻ.

Các loại quân phiếu chiến tranh

Philippines

phải|nhỏ|Tiền chiếm đóng Nhật Bản - 500 peso Philippines. Ngày 10 tháng 12 năm 1941, quân Nhật đổ bộ vào Luzon, sau đó chiếm Manila vào ngày 2 tháng 1 năm 1942. Người Nhật chiếm các ngân hàng và tịch thu được một số lượng tiền mặt hơn 20,5 triệu dollar Mỹ, cùng một số lượng lớn tiền địa phương, lượng ngoại tệ và vàng thỏi không xác định. Người Nhật đã sử dụng các loại tiền bản vị mạnh ở nước ngoài để mua nguyên liệu thô, gạo và vũ khí để cung cấp nhiên liệu và cung cấp cho cỗ máy chiến tranh của mình. Thay vào đó, họ phát hành một loạt các loại tiền định danh để thay thế đồng nội tệ trước đây. Những người Philippines địa phương thường gọi loại tiền này là "tiền chuột Mickey".

Sau khi Ngân hàng Phát triển phương Nam được thành lập, người Nhật bắt đầu phát hành các loại quân phiếu chiến tranh thay tiền ở Philippines. Đợt phát hành đầu tiên vào năm 1942 bao gồm các mệnh giá 1, 5, 10 và 50 centavos và 1, 5 và 10 peso. Năm tiếp theo, tiếp tục phát hành các phiên bản khác của các loại tiền 1, 5 và 10 peso. Tuy nhiên, đến năm 1944, thế lực chiến tranh của Nhật Bản bắt đầu suy yếu. Do lạm phát tăng lên, họ bắt đầu phát hành các quân phiếu mệnh giá 100 peso và rồi 500 peso.

Năm 1945, vào thời điểm gần cuối cuộc chiến, người Nhật vẫn tiếp tục cho phát hành quân phiếu mệnh giá 1.000 peso trước khi quân đội Hoa Kỳ tiến vào Manila vào ngày 3 tháng 2 năm 1945. Trong khi đang rút lui từ Manila đến Baguio, người Nhật vẫn tiến hành in các tờ tiền chiếm đóng mệnh giá 1.000 peso. Khi đó, họ đã rơi vào thế bị động và thiếu nguồn cung cấp, vì vậy, họ đã phải pha loãng mực máy in nhằm có thể nâng được số lượng in.

Miến Điện

phải|nhỏ| 10 Rupee, Tiền chiếm đóng của Nhật Bản - Miến Điện Người Nhật xâm chiếm Miến Điện vào tháng 1 năm 1942. Họ đã chinh phục Mandalay vào ngày 21 tháng 5 năm 1942 buộc người Anh phải rút lui qua Ấn Độ. Người Nhật chiếm giữ Miến Điện cho đến chiến dịch Đồng minh thứ hai năm 1944; mặc dù một cuộc đầu hàng chính thức đã không diễn ra cho đến tháng 8 năm 1945. Năm 1942, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy có giá trị 1, 5 và 10 xu và,, 1, 5 và 10 Rupee.

Năm 1943, người Nhật đã hỗ trợ cho tiến sĩ Ba Maw, một người ủng hộ phong trào tự trị của người Miến Điện, và đưa ông trở thành người đứng đầu chính phủ bù nhìn. Từ năm 1943 trở đi, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy theo tỷ lệ 1, 5 và 10 Rupee với một tờ 100 Rupee vào năm 1944. Các ký tự tiếng Nhật trong khung chữ nhật ở dưới cùng của mỗi tờ quân phiếu ghi chú "Chính phủ Đại đế quốc Nhật Bản" và nội dung của con dấu ở phía dưới bên phải của quân phiếu có biểu tượng Nhật Bản cho Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Indonesia

nhỏ|Hà Lan Đông Ấn - Tiền chiếm đóng Nhật Bản-10 Gulden (1942) Sau khi Singapore sụp đổ vào tháng 2 năm 1942, người Nhật đã tấn công Ấn Độ Hà Lan và xâm chiếm thành công vào ngày 9 tháng 3 năm 1942, chiếm đóng vùng này cho đến khi đầu hàng vào tháng 8 năm 1945. Năm 1942, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy theo tỷ lệ 1, 5 và 10 xu và, 1, 5 và 10 ghi chú Gulden. Điều đặc biệt là các quân phiếu này được in hoàn toàn bằng tiếng Hà Lan. Các giá trị là Een (1), Vijf (5) và Tien (10) xu và Guldens. Tất cả các quân phiếu đều mang dòng chữ "De Japansche Regeering Betaalt Aan Toonder" hoặc "The Japanese Government Promise To Pay The Bearer On Demand". Các mệnh giá 100 và 1000 Roepiah đã được phát hành vào năm 1944, với dòng chữ phiên âm tiếng Indonesia "Pemerintah Dai Nippon" (Chính phủ Nhật Bản). Một loạt quân phiếu bổ sung, với các mệnh giá 1/2, 1, 5, 10 và 100 Roepiah, cũng được ban hành vào năm 1944 với dòng chữ phiên âm tiếng Nhật Bản "Dai Nippon Teikoku Seiku" (Chính phủ Đại đế quốc Nhật Bản).

Châu Đại Dương

Ở Châu Đại Dương, tiền chiếm đóng được phát hành để sử dụng ở New Guinea thuộc Anh, Quần đảo Solomon và Gilbert và các tiền đồn đảo nhỏ khác. Những hòn đảo này đã bị bắt để bảo vệ các hòn đảo trong Khối thịnh vượng chung. Năm 1942, người Nhật đã phát hành các quân phiếu loại 1 và nửa shilling để sử dụng trong chi tiêu. Số tiền này đôi khi được xác định sai là được in để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược của Úc; không có cuộc xâm lược nào được lên kế hoạch và loại quân phiếu này không được sử dụng ở Úc.

Tiền nhái dùng tuyên truyền

Hoa Kỳ đã chuẩn bị một phiên bản nhái quân phiếu Nhật Bản loại 5 rupee được phát hành để sử dụng ở Miến Điện từ năm 1942 đến 1944, dùng đế tuyên truyền. Các quân phiếu ban đầu là màu tím đậm với một nền màu vàng. Các bản nhái để tuyên truyền của Mỹ là tương tự ở mặt trước. Mặt sau mang hai thông điệp tuyên truyền bằng ngôn ngữ Kachin (một bộ lạc chiến binh Miến Điện). Trong đó có ghi: Chính phủ Quân sự Nhật Bản đã chỉ huy quân đội của họ ở Miến Điện để giữ bí mật các chỉ thị sau đây. Chính phủ quân sự đang phát hành tiền tệ cho việc sử dụng [tiếng Nhật] của bạn ở Miến Điện. Chi tiêu bao nhiêu tùy thích cho thực phẩm và những thứ khác, nhưng đừng nói với người (Kachin) bí mật của tiền. Kachin! Người Nhật đang lưu hành những chi phiếu vô giá trị này cho bạn sử dụng. Rất dễ để có được những chi phiếu này nhưng rất khó để mua thức ăn hoặc những thứ khác. Tránh những chi phiếu này nếu không bạn sẽ bị lừa.

Tiền giả

Các tờ tiền giả của Hoa Kỳ trong suốt cuộc chiến là một phần trong nỗ lực gây bất ổn nền kinh tế địa phương, từ đó làm mất tinh thần của người Nhật và để cung cấp cho quân du kích chống lại người Nhật. Tướng MacArthur đã yêu cầu Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (OSS) sao chép tiền tệ của Nhật Bản tại Philippines cho sự trở lại cuối cùng của ông. May mắn thay, một nguồn cung cấp giấy làm từ các nhà máy có nguồn gốc từ Nhật Bản đã được đặt tại Hoa Kỳ Khi nguồn cung đó cạn kiệt, hoạt động làm giả được chuyển đến Úc. Năm 1943, MacArthur đã yêu cầu và nhận được các quân phiếu giả sau đây; năm triệu loại 10 peso, ba triệu loại 5 peso, một triệu rưỡi loại 1 peso và năm trăm nghìn loại 50 centavo. Các quân phiếu giả của người Mỹ được biết là có các mã chữ cái khối sau:

Loại 50 Centavo - PA, PB, PE, PF, PG, PH và PI; loại 1 Peso - PH; loại 5 peso - PD; loại 10 Peso - PA, PB và PC

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|300x300px| Đường phố ngập tràn tiền quân phiếu chiến tranh Nhật Bản, [[Yangon|Rangoon, 1945.]] **Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản**, tên chính thức là **Đại Đông Á Chiến tranh Quân phiếu** (, _Dai Tō-A Sensō
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh Bosnia** hay **Chiến tranh ở Bosnia và Hercegovina** là một cuộc xung đột vũ trang quốc tế xảy ra ở Bosna và Hercegovina trong khoảng thời gian giữa tháng 4 năm 1992 và
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
nhỏ|phải|Bản đồ Nhật Bản sau khi sát nhập Hàn Quốc **Sự kiện Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên** ( _kankoku heigo_, ) diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 1910 dựa trên "Hiệp ước
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Hoàng quân quân phiếu** (tiếng Nhật và tiếng Trung: 日本軍用手票, cũng được viết là 日本軍票) thường được viết tắt là **JMY** là tiền tệ được dùng để trả lương cho những người lính của Quân
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
hoặc **Tổng tuyển cử Nhật Bản 2012** là một cuộc tổng tuyển cử đã được tổ chức tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 2012. Các kết quả công bố cho thấy Đảng
là một bộ chỉ huy thống nhất trực thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USINDOPACOM). Đơn vị được kích hoạt tại Phi trường Fuchū ở Tokyo, Nhật Bản, vào ngày
**Nền chính trị Nhật Bản** được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân chủ lập hiến và Cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị) theo đó Thủ
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
[[Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt ký văn bản tuyên bố chiến tranh với Đức Quốc xã ngày 11 tháng 12 năm 1941.]] **Tuyên bố chiến tranh** hoặc gọi ngắn gọn là **tuyên chiến**,
[[Thịt cá voi bày bán tại siêu thị cá Tsukiji tại Tokyo, Nhật Bản]] Việc **săn bắt cá voi ở Nhật Bản** được Hiệp hội Săn bắt cá voi Nhật Bản (JWA) ước tính là
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Kazuo_Shii.jpg|nhỏ|[[Shii Kazuo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương (2000–2024)]] liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Tokuda_Nosaka_Shiga.JPG|nhỏ|Đảng viên từ trái sang phải: [[:en:Tokuda Kyuichi|Tokuda Kyuichi, Nosaka Sanzo and Yoshio Shiga (từ 1945–1946)]] nhỏ|240x240px|Trụ sở chính JCP **Đảng Cộng sản Nhật Bản** (**JCP**;
**_Chiến tranh giữa các vì sao_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Star Wars_**) là loạt tác phẩm hư cấu sử thi không gian của Mỹ sáng tạo bởi George Lucas, tập trung chủ yếu vào một
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Chiến tranh Algérie** hay còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Algérie** hoặc là **Cách mạng Algérie** ( _Ath-Thawra Al-Jazā'iriyya_; , "Chiến tranh Algérie") là một cuộc chiến tranh giữa Pháp và các
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
, viết tắt là , là luật chính thức quy định quốc kỳ và quốc ca của Nhật Bản. Trước khi luật được công bố vào ngày 13 tháng 8 năm 1999, Nhật Bản về
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**Nhật Bản thời hậu chiếm đóng** là thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản bắt đầu sau khi quân Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản kết thúc vào năm 1952. Vào thời điểm đó, Nhật
**Chiến tranh Ogaden**, còn gọi là **Chiến tranh Ethiopia-Somalia**, là một cuộc tấn công quân sự của Somalia từ tháng 7 năm 1977 đến tháng 3 năm 1978 sang khu vực tranh chấp Ogaden do
**Cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản năm 2024** được tổ chức vào tháng 9 năm 2024 để bầu ra chủ tịch tiếp theo của Đảng Dân chủ Tự do
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**_Chiến tranh giữa các vì sao: Tập III – Sự báo thù của người Sith_**) (tựa gốc tiếng Anh: **_Star Wars: Episode III – Revenge of the Sith_**) là một bộ phim không gian sử
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
** Biểu tình của sinh viên Nhật Bản 1968–1969** (, _daigaku funsō,_ Hán-Việt_: đại học phân tranh_ hoặc , _daigaku tōsō,_ Hán-Việt: _đại học đấu tranh_) là một loạt các cuộc biểu tình diễn ra
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây