✨Chiến tranh Ogaden

Chiến tranh Ogaden

Chiến tranh Ogaden, còn gọi là Chiến tranh Ethiopia-Somalia, là một cuộc tấn công quân sự của Somalia từ tháng 7 năm 1977 đến tháng 3 năm 1978 sang khu vực tranh chấp Ogaden do Ethiopia quản lý, khởi đầu bằng cuộc xâm chiếm của Somalia vào Ethiopia. Liên Xô phản đối hành động xâm chiếm và ngừng ủng hộ Somalia, chuyển sang bắt đầu ủng hộ Ethiopia. Chiến tranh kết thúc khi Quân đội Somalia triệt thoái về bên kia biên giới và tuyên bố một thỏa thuận đình chiến. Cuộc chiến đánh dấu sự chia rẽ trong nội bộ khối cộng sản và góp phần vào thất bại toàn tập của khối xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh lạnh.

Bối cảnh

Phân chia lãnh thổ

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh duy trì quyền kiểm soát đối với Somaliland thuộc Anh và Somalia thuộc Ý với địa vị lãnh thổ bảo hộ. Năm 1950, theo điều khoản trong các Hòa ước Paris 1947, Liên Hợp Quốc cấp cho Ý quyền quản trị Somalia thuộc Ý, song nằm dưới giám sát chặt chẽ và với điều kiện là Somalia giành độc lập trong mười năm. Somaliland thuộc Anh duy trì là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh cho đến năm 1960.

Năm 1948, dưới áp lực từ các Đồng Minh trong Thế chiến II của mình và để làm mất tinh thần người Somali, người Anh trao trả Haud và Ogaden cho Ethiopia, dựa theo một hiệp ước mà họ ký vào năm 1897 với nội dung người Anh, Pháp, và Ý thỏa thuận về biên giới lãnh thổ của Ethiopia với Hoàng đế Ethiopia Menelik để đổi lấy việc ông trợ giúp chống các thị tộc thù địch tập kích. Anh đưa vào điều kiện là các cư dân người Somalia sẽ giữ lại quyền tự trị của họ, song Ethiopia lập tức yêu sách chủ quyền đối với khu vực. Điều này xúc tiến một nỗ lực bất thành của người Anh vào năm 1956 để mua lại đất của người Somali bị chuyển giao. là Khu vực Biên giới Phương Bắc (NFD) cho người Kenya bất chấp kết quả bỏ phiếu không chính thức biểu thị ý nguyện áp đảo của cư dân khu vực là gia nhập nước Cộng hòa Somali mới thành lập.

Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại Djibouti láng giềng (đương thời gọi là Somali thuộc Pháp) vào năm 1958, trước khi Somalia độc lập vào năm 1960, nhằm quyết định gia nhập nước Cộng hòa Somalia hay duy trì thuộc Pháp. Kết quả là ủng hộ tiếp tục liên kết với Pháp, phần lớn là do phiếu của dân tộc Afar có số lượng đáng kể và cư dân gốc Âu. Đa số cử tri bỏ phiếu chống thuộc Pháp thuộc dân tộc Somali, họ tán thành mãnh liệt gia nhập Somalia thống nhất. Djibouti cuối cùng giành độc lập từ Pháp vào năm 1977, và một nhân vật người Sonmali là Hassan Gouled Aptidon trở thành tổng thống đầu tiên của Djibouti. Đến ngày 1 tháng 7 năm 1960, hai lãnh thổ hợp nhất thành Cộng hòa Somali. Một chính phủ được thành lập, với Haji Bashir Ismail Yusuf là Chủ tịch Quốc hội, Aden Abdullah Osman Daar là Tổng thống và Abdirashid Ali Shermarke là Thủ tướng (ông làm tổng thống từ 1967–1969). Đến ngày 20 tháng 7 năm 1961 và qua một cuộc trưng cầu dân ý, nhân dân Somalia thông qua một hiến pháp mới, vốn được soạn thảo lần đầu tiên vào năm 1960.

Đến ngày 15 tháng 10 năm 1969, trong khi đến thăm thị trấn Las Anod, Tổng thống Shermarke bị một cận vệ của ông bắn chết. Sau đó, một cuộc đảo chính quân sự được tiến hành vào ngày 21 tháng 10 năm 1969 (ngày sau tang lễ của ông), trong đó Quân đội Somalia đoạt quyền lực. Người khởi xướng đảo chính là tư lệnh Lục quân Thiếu tướng Mohamed Siad Barre.

Hội đồng Cách mạng Tối cao

Hội đồng Cách mạng Tối cao (SRC) nắm quyền sau khi Tổng thống Sharmarke bị ám sát, và nằm dưới quyền lãnh đạo của Mohamed Siad Barre và Trung tá Salaad Gabeyre Kediye và Cảnh sát trưởng Jama Korshel. Kediye chính thức giữ anh hiệu "Cha của Cách mạng," và Barre ngay sau đó trở thành thủ lĩnh của SRC. SRC sau đó đổi tên nước thành Cộng hòa Dân chủ Somali, giải thr nghị viện và Tòa án Tối cao, và đình chỉ hiến pháp.

Ngoài hỗ trợ tài chính và vũ khí từ trước của Liên Xô, Somalia còn được Ai Cập gửi cho hàng triệu USD vũ khí, huấn luyện quân sự và gửi chuyên gia đến Somalia nhằm hỗ trợ cho chính sách dài hạn của Ai Cập trong việc đảm bảo dòng chảy sông Nin trước Ethiopia bất ổn.

Derg

thumb|Huy hiệu Đảng của chế độ [[Derg tại Ethiopia.]] Trong khi Somalia đạt được sức mạnh quân sự, thì Ethiopia ngày càng suy yếu. Trong tháng 9 năm 1974, Hoàng đế Haile Selassie bị Derg (hội đồng quân sự) lật đổ, khởi đầu một thời kỳ náo động. Derg nhanh chóng lâm vào xung đột nội bộ để xác định thủ lĩnh. Trong khi đó, nhiều phong trào chống Derg cũng như ly khai khác nhau bắt đầu trên toàn quốc. Cán cân sức mạnh trong khu vực nay nghiêng về Somalia.

Một trong các tổ chức ly khai tìm cách tận dụng thời cơ bất ổn là Mặt trận Giải phóng Miền Tây Somalia (WSLF) ủng hộ Somalia, hoạt động tại khu vực Ogaden có cư dân là người Somali, cho đến cuối năm 1975 họ đã tấn công nhiều đồn của chính phủ. Từ năm 1976 đến 1977, Somalia cung cấp vũ khí và viện trợ khác cho WSLF.

Một dấu hiệu cho thấy trật tự trong Derg được khôi phục là lời tuyên bố của Mengistu Haile Mariam với tư cách nguyên thủ quốc gia vào ngày 11 tháng 2 năm 1977. Tuy nhiên, Ethiopia vẫn nằm trong náo động khi quân đội nỗ lực trấn áp các đối thủ dân sự. Bất chấp bạo lực, Liên Xô sau khi quan sát chặt chẽ đã trở nên tin tưởng rằng Ethiopia đang phát triển thành một nhà nước Marxist–Leninist đích thực và Liên Xô có lợi ích trong viện trợ chế độ mới. Do đó, họ bí mật tiếp cận Mengistu với các đề nghị viện trợ và được chấp thuận. Ethiopia đóng cửa phái đoàn quân sự và trung tâm thông tin Hoa Kỳ trong tháng 4 năm 1977.

Tháng 6 năm 1977, Mengistu cáo buộc Somalia đưa binh sĩ xâm nhập khu vực của người Somali để chiến đấu cùng WSLF. Bất chấp các bằng chứng đáng kể, Barre kịch liệt bác bỏ điều này, nói rằng các tình nguyện viên Quân đội Somalia được phép trợ giúp WSLF.

Tiến trình chiến tranh

thumb|Phạm vi tương đối [[Đại Somalia.]] thumb|Lãnh thổ Ethiopia bị Somalia chiếm đóng năm 1977.

Xâm chiếm và giai đoạn đầu (tháng 7–8)

Theo các nguồn của Ethiopia, Quân đội Quốc gia Somalia xua quân xâm nhập Ogaden lúc 03:00 giờ ngày 13 tháng 7 năm 1977 (tức 5 tháng Hamle năm 1969 theo lịch Ethiopia) (một số nguồn khác ghi ngày 23 tháng 7). Theo các nguồn Ethiopia, quân xâm chiếm có số lượng 70.000 người, 40 chiến đấu cơ, 250 xe tăng, 350 thiết vận xa, và 600 pháo, thực tế có nghĩa là toàn bộ lục quân Somalia.

Liên Xô nhận thấy mình cung ứng cho cả hai bên tham chiến, họ nỗ lực làm trung gian để ngừng bắn. Khi nỗ lực thất bại, người Liên Xô bỏ rơi Somalia. Toàn bộ viện trợ cho chế độ của Siad Barre bị dừng lại, trong khi vũ khí chuyển bằng tàu biển đến Ethiopia thì tăng lên. Viện trợ quân sự của Liên Xô (đứng thứ nhì về cường độ chỉ sau đợt tái cung cấp khổng lồ vào tháng 10 năm 1973 cho quân Syria trong Chiến tranh Yom Kippur) và các cố vấn tràn ngập cùng với khoảng 15.000 chiến binh Cuba. Các quốc gia Cộng sản khác cung cấp trợ giúp: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen cung cấp viện trợ quân sự và Triều Tiên giúp đào tạo một lực lượng "dân quân"; Đông Đức cũng cung cấp huấn luyện, kỹ thuật và hỗ trợ quân. (Khi quy mô trợ giúp của phe Cộng sản trở nên rõ ràng trong tháng 11 năm 1977, Somalia đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Liên Xô và trục xuất toàn bộ công dân Liên Xô khỏi lãnh thổ.)

Không phải toàn bộ các quốc gia Cộng sản đều đứng về phía Ethiopia, do kình địch Trung-Xô nên Trung Quốc trợ giúp Somalia trên phương diện ngoại giao cùng bằng chứng trợ giúp quân sự. Romania dười quyền Nicolae Ceauşescu có thói quen phá vỡ các chính sách của Liên Xô và duy trì quan hệ ngoại giao hữu hảo với Siad Barre.

Đến ngày 17 tháng 8, các đơn vị quân đội Somalia đã tiến đến ngoại vi thành phố chiến lược Dire Dawa. Tại thành phố này không chỉ có căn cứ không quân lớn thứ nhì toàn quốc, có giao lộ vào Ogaden, mà còn có đường sắt huyết mạch của Ethiopia đến Biển Đỏ, và nếu người Somalia nắm được Dire Dawa, Ethiopia sẽ không thể xuất khẩu nông sản và có khí tài cần thiết để tiếp tục chiến đấu. Gebre Tareke ước tính quân Somalia tiến với hai lữ đoàn cơ động hóa, một tiểu đoàn xe tăng và một khẩu đội BM về thành phố; kháng cự là Sư đoàn dân quân số 2 Ethiopia, tiểu đoàn Nebelbal 201, tiểu đoàn 781 và lữ đoàn 78, đại đội cơ giới hóa số 4, và một trung đội xe tăng có hai xe.

Các chiến thắng của Somali và bao vây Harar (tháng 9–1)

thumb|left|Lực lượng Mặt trận Giải phóng Tây Somali. Chiến thắng riêng lẻ lớn nhất của SNA-WSLF là một cuộc tấn công thứ nhì vào Jijiga khoảng giữa tháng 9 (trận Jijiga), khi đó các binh sĩ Ethiopia bị mất tinh thần đã triệt thoái. Lực lượng phòng thủ địa phương không phải đối thủ của quân Somalia và quân đội Ethiopia buộc phải rút qua đèo Marda, nửa đường giữa Jijiga và Harar. Đến tháng 9, Ethiopia buộc phải thừa nhận rằng họ chỉ kiểm soát khoảng 10% diện tích Ogaden và tận dụng mạnh lợi thế của họ do các tiểu đoàn xe tăng chịu tiêu hao lớn, các cuộc không kích không ngớt của Ethiopia vào tuyến tiếp tế của họ, và bắt đầu mùa mưa khiến các đường đất không sử dụng được. Trong thời gian này, chính phủ Ethiopia tìm cách gây dựng và đào tạo một lực lượng dân quân hùng mạnh khổng lồ gồm 100.000 người và biên chế họ vào lực lượng chính quy. Ngoài ra, do quân đội Ethiopia là một khách hàng của vũ khí Hoa Kỳ, họ thích nghi gấp rút với vũ khí mới từ khối Khối Warszawa.

Từ tháng 10 năm 1977 đến tháng 1 năm 1978, quân SNA-WSLF nỗ lực chiếm lĩnh Harar trong trận Harar, khi 40.000 lính Ethiopia tái tập hợp và tái vũ trang với pháo và thiết giáp do Liên Xô cung cấp; nhận được hỗ trợ từ 1500 "cố vấn" Liên Xô và 11.000 binh sĩ Cuba, họ giao tranh ác liệt với người Somali. Mặc dù quân Somali tiến đến ngoại vi thành phố vào tháng 11, song họ kiệt sức và cuối cùng phải triệt thoái để chuẩn bị đối phó quân Ethiopia phản công.

Ethiopia-Cuba phản công (tháng 2–3)

Dự kiến Ethiopia-Cuba tiến hành tấn công vào đầu tháng 2; tuy nhiên, kèm theo nó là một cuộc tấn công thứ nhì mà người Somali không ngờ. Một đội binh sĩ Ethiopia và Cuba tiến về phía đông bắc vào vùng cao nguyên giữa Jijiga và biên giới với Somalia, vòng qua quân SNA-WSLF trấn giữ đèo Marda. Các máy bay trực thăng Mil Mi-6 không vận các xe bọc thép BMD-1 và ASU-57 của Cuba đến sau lưng đối phương. Người Somalia do đó bị tấn công từ hai hướng trong một trận chiến "gọng kìm", quân Ethiopia tái chiếm Jijiga chỉ trong hai ngày và giết được 3.000 quân Somali. Năng lực phòng thủ của quân Somali sụp đổ và toàn bộ các đô thị chính của Ethiopia bị tái chiếm trong các tuần sau. Nhận thức tình thế, Siad Barre lệnh cho SNA triệt thoái về Somalia vào ngày 9 tháng 3 năm 1978, song Rene LaFort tuyên bố rằng người Somali, biết trước tình hình nên đã rút từ trước các vũ khí hạng nặng. Đơn vị đáng kể cuối cùng của Somalia rời khỏi Ethiopia vào ngày 15 tháng 3 năm 1978, đánh dấu kết thúc chiến tranh.

Hậu quả

Sau khi SNA triệt thoái, WSLF tiếp tục nổi loạn. Đến tháng 5 năm 1980, phiến quân với trợ giúp của một số lượng nhỏ binh sĩ SNA kiểm soát một khu vực đáng kể tại Ogaden. Tuy nhiên, đến năm 1981 cuộc nổi loạn suy yếu chỉ còn là các cuộc tấn công chớp nhoáng và cuối cùng bị thất bại.

Đối với chế độ Barre, cuộc xâm chiếm có lẽ là sai lầm chiến lược lớn nhất từ khi độc lập, và làm suy yếu quân đội. Khoảng một phần ba binh sĩ biên chế của SNA, ba phần tám đơn vị thiết giáp và một nửa không quân Somalia bị mất. Chính quyền Barre suy yếu dẫn đến từ bỏ thực tế giấc mơ một Đại Somalia thống nhất. Thất bại trong chiến tranh làm trầm trọng thêm bất mãn với chế độ Barre; nhóm đối lập có tổ chức đầu tiên là Mặt trận Dân chủ Cứu tế Somali (SSDF) được các sĩ quan quân đội thành lập vào năm 1979.

Hoa Kỳ nhận Somalia làm một đồng minh Chiến tranh Lạnh từ cuối thập niên 1970 đến năm 1988 nhằm đổi lấy việc sử dụng các căn cứ tại Somalia, và một cách thức gây ảnh hưởng lên khu vực. Một xung đột vũ trang thứ nhì xảy ra vào năm 1988 được giải quyết khi hai quốc gia chấp thuận triệt thoái binh sĩ khỏi biên giới.

Hai bên đều phạm các tội ác chiến tranh nghiêm trọng chống lại thường dân.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Ogaden**, còn gọi là **Chiến tranh Ethiopia-Somalia**, là một cuộc tấn công quân sự của Somalia từ tháng 7 năm 1977 đến tháng 3 năm 1978 sang khu vực tranh chấp Ogaden do
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến tranh Tigray** là một cuộc xung đột vũ trang tại Vùng Tigray của Ethiopia từ ngày 3 tháng 11 năm 2020 đến ngày 3 tháng 11 năm 2022 giữa lực lượng đặc biệt Vùng
**Shenyang J-6** (_Thẩm Dương J-6_, – Tiêm-6; phiên bản xuất khẩu có tên gọi **F-6** ### Mô tả J-6 đạt vận tốc tối đa 1.540 km/h (960 mph), Mach 1,45. Trần bay đạt 17.900 m (58.700 ft). Bán kính
thumb|Lính pháo binh Cuba ở [[Ethiopia trong Chiến tranh Ogaden năm 1977.]] Chính sách đối ngoại của Cuba trong Chiến tranh Lạnh nhấn mạnh việc cung cấp hỗ trợ quân sự trực tiếp cho các
**Leonid Ilyich Brezhnev** (tiếng Nga: Леони́д Ильи́ч Бре́жнев; phiên âm tiếng Việt: **Brê-giơ-nhép**; 19 tháng 12 năm 1906 – 10 tháng 11 năm 1982) là Tổng bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
**BM-21 "Grad"** () là một loại pháo phản lực bắn loạt tự hành cỡ nòng 122 mm thiết kế tại Liên Xô. Hệ thống cùng với rocket M-210F được phát triển từ những năm 1960 và
**DKB** hay còn gọi là **ĐKB** là loại pháo phản lực theo ống được gỡ từ dàn pháo phản lực Katyusha BM-21 của Liên Xô theo sáng kiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chủ nghĩa ** Đế quốc Xô viết** được sử dụng bởi những người đối lập chỉ trích Liên Xô và những người thuộc các dân tộc thiểu số ở Liên Xô để nhắc về chính
**Mil Mi-24** là một máy bay trực thăng vũ trang hạng nặng đồng thời có một chút khả năng chở quân bắt đầu hoạt động trong Không quân Xô viết từ năm 1976, sau này
**Mehmet Vehib Kaçı** (thường gọi là **Mehmet Wehib** thay **Vehip Pasha**) (1877 - 1940), người Thổ Nhĩ Kỳ, là sĩ quan cấp cao trong quân đội đế quốc Ottoman. Ông từng tham gia Chiến tranh
**Somalia** (phiên âm tiếng Việt: **Xô-ma-li-a**, ; ), tên chính thức **Cộng hòa Liên bang Somalia** (, ) là một quốc gia nằm ở Vùng sừng châu Phi. Nước này giáp với Djibouti ở phía
**Ali Maow Maalin** (; cả **Mao Moallim** và **Mao' Mo'allim**; 1954 – 22 tháng 7 năm 2013) là một đầu bếp bệnh viện người Somali và nhân viên y tế Merca, người cuối cùng được
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
**Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba** ( – FAR) bao gồm Lục quân Cách mạng, Phòng không Không quân Cách mạng, Hải quân Cách mạng và các cơ quan bán quân sự khác trong
thumb|Đông Phi thumb|Bản đồ [[Đông Phi thuộc Anh năm 1911|282x282px]] **Đông Phi** là khu vực ở phía đông của lục địa châu Phi, được định nghĩa khác nhau tùy theo địa lý học hoặc địa
**Vasiliy Ivanovich Petrov** (; - 1 tháng 2 năm 2014) là một quan chức quân sự cấp cao của Nga và Nguyên soái Liên Xô. ## Tiểu sử Petrov sinh năm 1917 tại Chernolesskoye, Stavropol.
**Người Cuba** () là những người sinh ra ở Cuba và những người có quốc tịch Cuba. Cuba là một quốc gia đa sắc tộc, là nơi sinh sống của những người thuộc các nguồn
**Fidel Castro** (tên khai sinh: **Fidel Alejandro Castro Ruz**; ; 13 tháng 8 năm 1926 – 25 tháng 11 năm 2016) là một nhà cách mạng và chính khách người Cuba. Ông là lãnh tụ
**Ethiopia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia**, là một quốc gia nội lục ở vùng sừng châu Phi giáp với Eritrea về phía bắc, Djibouti về phía đông bắc, Somalia về
Bài này đề cập đến tiền sử và lịch sử của Ethiopia từ khi nó nổi lên như một đế chế dưới thời Aksumites đến hình thức hiện tại là Cộng hòa Dân chủ Liên
Ngày **13 tháng 7** là ngày thứ 194 (195 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 171 ngày trong năm. ## Sự kiện * 884 – Cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào kết thúc khi thủ
**Somaliland**, quốc hiệu là **Cộng hòa Somaliland**, là một quốc gia được công nhận hạn chế ở Sừng châu Phi, nguyên là một khu vực tự trị của Somalia. Chính phủ Somaliland tự xác định
**Magool** (, ) (2 tháng 5 năm, 1948 – 19 tháng 3 năm 2004), tên khai sinh là **Halima Khaliif Omar**, là ca sĩ người Somali. ## Thơ ấu Magool sinh ra tại thành phố
**Somaliland thuộc Pháp** (, lit. ) là một thuộc địa của Pháp, nằm ở vùng sừng châu Phi. Thuộc địa này được thành lập từ năm 1883 đến 1887 sau khi các tiểu vương địa
**Sư tử** (_Panthera leo_) là một trong những loài đại miêu của họ Mèo, chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này