✨Somaliland

Somaliland

Somaliland, quốc hiệu là Cộng hòa Somaliland, là một quốc gia được công nhận hạn chế ở Sừng châu Phi, nguyên là một khu vực tự trị của Somalia. Chính phủ Somaliland tự xác định mình là quốc gia kế thừa của lãnh thổ bảo hộ Somaliland thuộc Anh, vốn độc lập vào ngày 26 tháng 6 năm 1960 với tên gọi Quốc gia Somaliland, trước khi hợp nhất với Lãnh thổ ủy trị Somalia vào ngày 1 tháng 7 năm 1960 để hình thành nước Cộng hòa Somalia.

Sau khi chính phủ trung ương sụp đổ vào năm 1991, chính phủ địa phương tuyên bố độc lập khỏi Somalia vào ngày 18 tháng 5 năm 1991. Kể từ đó, lãnh thổ này nằm dưới quyền quản lý của chính phủ Somaliland. Somaliland có các quan hệ phi chính thức với một số nước ngoài, những nước này cử phái đoàn ngoại giao đến Hargeisa. Ethiopia cũng có một văn phòng thương mại tại Somaliland. Tuy nhiên, Somaliland vẫn không được quốc gia hay tổ chức quốc tế nào công nhận. thumb|Một đoạn đường ở Somaliland thumb|Một bãi đất ỏ Somaliland thumb|Hình ảnh một khu vực của thủ đô Hargeisa

Lịch sử

Các văn vật sớm nhất của loài người trong khu vực là các bích họa hang động Laas Geel, có niên đại trước 3000 TCN. Hồi giáo được đưa đến vùng duyên hải phía bắc Somalia từ bán đảo Ả Rập, một thời gian ngắn sau hành trình hijra của Muhammad. Nhiều vương quốc Somalia Hồi giáo được thành lập trong khu vực vào giai đoạn này. Nhiều thế kỷ sau, đến thập niên 1500, Đế quốc Ottoman chiếm đóng Berbera và vùng xung quanh. Pasha của Ai Cập là Muhammad Ali sau đó thiết lập chỗ đứng tại khu vực từ năm 1821 đến năm 1841. thumb|upright|[[Ahmed Mahamoud Silanyo,Tổng thống thứ 4 của cộng hòa Somaliland , đang phát biểu ở Chatham House vào 2010.]] thumb|Lực lượng vũ trang Somaliland thumb|Một thác nước ở Somaliland thumb|Vùng quê Somaliland nhỏ|342x342px|Bản đồ Somaliland Năm 1888, sau khi ký kết các hiệp định liên tiếp với các Sultan người Somalia đương nhiệm như Mohamoud Ali Shire của Vương quốc Warsangali, Anh Quốc thiết lập một vùng đất bảo hộ trong khu vực, được gọi là Somaliland thuộc Anh. Người Anh tiến hành đóng quân, và xếp vùng đất bảo hộ này vào thành phần của Ấn Độ thuộc Anh cho đến năm 1898. Somaliland thuộc Anh sau đó nằm dưới quyền quản lý của Bộ Ngoại giao cho đến năm 1905, và sau đó là Bộ Thuộc địa.

Nhìn chung, người Anh không quan tâm nhiều đến khu vực nghèo tài nguyên này. Theo tuyên bố thì mục đích của việc thiết lập vùng đất bảo hộ là để "đảm bảo một thị trường cung ứng, kiểm soát buôn bán nô lệ, và loại trừ việc các cường quốc khác can thiệp." Người Anh chủ yếu nhìn nhận vùng đất bảo hộ này là một nguồn cung cấp thịt cho các tiền đồn Ấn Độ thuộc Anh của họ tại Aden. Do vậy, khu vực có biệt danh là "cửa hàng thịt của Aden". Chính phủ thuộc địa trong giai đoạn này không mở rộng cơ sở hạ tầng hành chính vượt quá vùng duyên hải, trong khi Somalia thuộc Ý trải qua can thiệp thuộc địa nhiều hơn.

Somaliland thuộc Anh độc lập vào ngày 26 tháng 6 năm 1960, còn Lãnh thổ ủy thác Somalia (tức Somalia thuộc Ý cũ) cũng độc lập năm ngày sau đó. Ngày 1 tháng 7 năm 1960, đúng như kế hoạch, hai lãnh thổ hợp nhất để hình thành nước Cộng hòa Somalia. Ngày 20 tháng 7 năm 1961, thông qua trưng cầu dân ý đại chúng, người dân Somalia thông qua một hiến pháp mới. Đến thập niên 1990, chính phủ của Mohamed Siad Barre sụp đổ. Nhiều người Somalia vỡ mộng với sinh hoạt dưới chế độ độc tài quân sự, chính phủ trở nên ngày càng chuyên chế, các phong trào kháng chiến xuất hiện trên toàn quốc và được Ethiopia khuyến khích, cuối cùng dẫn đến Nội chiến Somalia. Trong số các nhóm vũ trang có Mặt trận Dân tộc Somalia (SNM) có cơ sở tại Hargeisa.

Mặt trận Dân tộc Somalia ban đầu chủ trương hợp nhất, song cuối cùng chuyển sang theo đuổi độc lập, muốn tách khỏi phần còn lại của Somalia. Dưới quyền lãnh đạo của Abdirahman Ahmed Ali Tuur, chính phủ địa phương tuyên bố các lãnh thổ ở tây bắc bộ Somalia độc lập trong một hội nghị được tổ chức tại Burao từ ngày 27 tháng 4 năm 1991 đến ngày 15 tháng 5 năm 1991. Abdirahman Ahmed Ali Tuur sau đó trở thành Tổng thống đầu tiên của chính thể Somaliland, song từ chức vào năm 1994 và bắt đầu công khai mưu cầu và chủ trương hòa giải với phần còn lại của Somalia theo thể chế liên bang phân quyền. Muhammad Haji Ibrahim Egal được tái bổ nhiệm vào năm 1997, và tại nhiệm cho đến khi mất vào năm 2002. Phó tổng thống Dahir Riyale Kahin tuyên thệ nhậm chức tổng thống một thời gian ngắn sau đó.

Cuộc chiến tại nam bộ Somalia giữa một bên là quân Hồi giáo nổi dậy và bên còn lại là chính phủ trung ương Somalia cùng Liên minh châu Phi hầu như không có ảnh hưởng trực tiếp đến Somaliland, lãnh thổ này cùng với Puntland láng giếng vẫn tương đối ổn định.

Địa lý

Somaliland nằm tại tây bắc bộ Somalia, giữa 08°00' – 11°30' vĩ Bắc và giữa 42°30' – 49°00' kinh Đông. Lãnh thổ này giáp với Djibouti ở phía tây, với Ethiopia ở phía nam, và với Puntland ở phía đông. Somaliland có đường bờ biển, phần lớn là dọc theo vịnh Aden. Lãnh thổ có diện tích .

Khí hậu Somaliland pha trộn giữa các điều kiện ẩm và khô. Phần phía bắc của lãnh thổ có nhiều đồi, và nhiều nơi có cao độ trên mực nước biển. Những nơi như Awdal, Sahil và Maroodi Jeex (Woqooyi Galbeed) có đất đai phì nhiêu và nhiều núi, còn Togdheer thì phần lớn là bán hoang mạc. Awdal có một số đảo, ám tiêu san hô, rừng ngập mặn.

Một bình nguyên cây bụi bao phủ, bán hoang mạc được gọi là Guban nằm song song với vùng duyên hải vịnh Aden. Với chiều rộng 12 km ở phía tây đến 2 km ở phía đông, bình nguyên bị các sông suối chia cắt, song lòng các sông suối này về cơ bản là cát khô ngoại trừ trong mùa mưa. Khi có mưa, các bụi cây thấp và bụi cỏ của Guban biến thành thảm thực vật tươi tốt.

Cal Madow là một dãy núi ở phần phía bắc của lãnh thổ, kéo dài từ tây bắc của Erigavo đến cách vài km phía tây của Bosaso. Dãy núi này có đỉnh cao nhất của Somalia là Shimbiris với cao độ . Các rặng núi gồ ghề theo chiều đông-tây thuộc dãy Karkaar cũng nằm trong vùng nội địa của vùng duyên hải vịnh Aden. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng 1 tỷ USD kiều hối đến Somalia hàng năm từ những người tha hương tại Hoa Kỳ, châu Âu, và các quốc gia vùng Vịnh. Các nhà phân tích cho rằng công ty Dahabshiil có thể giải quyết hai phần ba trong số đó, và rằng có đến một nửa trong đó là đến Somaliland.

Nông nghiệp thường được coi là một ngành kinh tế có tiềm năng, đặc biệt là sản xuất ngũ cốc và trồng hoa. Khai mỏ cũng có tiềm năng, dẫu cho việc khai thác đá giản đơn đã dẫn đến việc chúng có chứa hỗn tạp nhiều loại khoáng sản khác nhau.

Nghiên cứu gần đây tại Somaliland cho thấy rằng khu vực có dự trữ lớn về dầu mỏ và khí thiên nhiên ở ngoài khơi và ven bờ. Cũng có một vài giếng đã được khoan trong những năm gần đây, song do tình trạng không được công nhận của khu vực, các công ty dầu mỏ nước ngoài không thể kinh doanh tại đây.

Từ sau chiến tranh Eritrea-Ethiopia, Somaliland trở thành nơi quá cảnh xuất khẩu chính của Ethiopia. Ethiopia đã ký một hợp đồng với chính phủ Somaliland, ghi rõ rằng thành phố cảng Berbera sẽ xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa đi và đến từ Ethiopia.

Nhân khẩu

Ngôn ngữ

Hầu hết người dân tại Somaliland nói hai ngôn ngữ chính thức của khu vực: tiếng Somali và tiếng Ả Rập. Điều 6 trong Hiến pháp năm 2001 quy định rằng ngôn ngữ chính thức của Somaliland là tiếng Somali, mặc dù tiếng Ả Rập là một môn học bắt buộc trong trường học và được sử dụng tại các nhà thờ Hồi giáo quanh khu vực. Tiếng Anh cũng được sử dụng và được dạy trong trường học.

Tiếng Somali là một tập hợp các ngôn ngữ gọi là Các ngôn ngữ Đất thấp Đông Cushitic bởi người Somali sống tại Somalia, Djibouti và các lãnh thổ lân cận. Đông Cushitic là một nhánh của Nhóm ngôn ngữ Cushitic, một phần của Ngữ hệ Á-Phi rộng lớn.

Phơng ngữ Somali được sử dụng rộng rãi nhất là tiếng Somali tiêu chuẩn, một thuật ngữ được dùng để chỉ một vài phương ngữ nhỏ, những người sử dụng có thể hiểu lẫn nhau một cách dễ dàng. Tiếng Somali tiêu chuẩn được nói tại hầu hết Somali và các lãnh thổ lân cận (Djibouti, Ogaden, đông bắc Kenya) và được các đài truyền thông tại Somaliland sử dụng.

Khả năng ngôn ngữ có ý nghĩa lớn trong xã hội Somali, khả năng có thể cầu hôn, được chiến đấu, tở thành một chính trị gia hay lãnh đạo tôn giáo một phần dựa trên sự khéo léo về mặt ngôn ngữ của người đó. Thời kỳ trước cách mạng, tiếng Anh là ngôn ngữ chiếm ưu thế tại hệ thống trường học và trong chính quyền.

Tôn giáo

Với một vài ngoại lệ, toàn bộ người dân Somaliland là người Hồi giáo, phần lớn thuộc hệ phái Hồi giáo Sunni và phái Shài'i của luật học Hồi giáo. Hồi giáo cũng đóng vai trò là tôn giáo quốc gia. Có những dầu tích về tôn giáo truyền thống tiền Hồi giáo từng tồn tại ở Somaliland, song hiện Hồi giáo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong ý thức dân tộc của người Somali. Nhiều quy tắc xã hội của người Somali xuất phát từ tôn giáo của họ. Nhiều phụ nữ Somali mang hijab khi họ ở nơi công cộng. Thêm vào đó, người Somali không dùng thịt lợn, cờ bạc và đồ uống có cồn. Người Hồi giáo thường tụ tập vào chiều thứ sáu để nghe thuyết pháp và cầu nguyện tập thể.

Hệ thống thị tộc

Có khoảng 3,5 triệu cư dân tại Somaliland. Xã hội Somaliland được tổ chức thành các thị tộc. Thị tộc lớn nhất tại Somaliland là Isaaq và thị tộc lớn thứ hai là Gadabuursi Dir, một số thị tộc lớn khác hiện diện tại Somaliland là Issa, Gabooye, và Harti Darod (như Warsangali và Dhulbahante). Người Warsangali và Dhulbahante chủ yếu cư trú tại Sool, một số phần ở Đông Sanaag và một phần nhỏ ở đông nam Togdheer, trong khi người Isaaq tập trung chủ yếu tại các vùng Maroodi Jeex, Sanaag, Gabiley, Togdheer và Saaxil. Các thị tộc được chia tiếp thành các dòng tộc.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Somaliland**, quốc hiệu là **Cộng hòa Somaliland**, là một quốc gia được công nhận hạn chế ở Sừng châu Phi, nguyên là một khu vực tự trị của Somalia. Chính phủ Somaliland tự xác định
**Somaliland thuộc Pháp** (, lit. ) là một thuộc địa của Pháp, nằm ở vùng sừng châu Phi. Thuộc địa này được thành lập từ năm 1883 đến 1887 sau khi các tiểu vương địa
**Somaliland thuộc Anh** (), tên chính thức là **Anh bảo hộ Somaliland** (, ) là thuộc địa của Anh ở vùng Đông Bắc của Sừng châu Phi. Thủ đô là Hargeisa. Trong chiến tranh thế
**Nông nghiệp ở Somaliland** là ngành quan trọng thứ hai sau chăn nuôi trong các ngành sản xuất của Somaliland, và cũng là một trong những trụ cột kinh tế chính của đất nước. Một
**Quốc gia Somaliland** (; ) là một quốc gia độc lập có thời gian ngắn trong lãnh thổ phía tây bắc hiện tại của Somalia, nơi còn được gọi là Cộng hòa Somaliland tự tuyên
Tất cả công dân đến **Somaliland** đều phải xin thị thực. Somaliland và Somalia có chính sách thị thực hoàn toàn khác nhau và Somaliland không công nhận chính sách thị thực quốc gia của
**Somaliland thuộc Ý** (, _Al-Sumal Al-Italiy_, ), đôi khi cũng được gọi là **Somalia thuộc Ý** là một trong những thuộc địa của Vương quốc Ý tại Sừng châu Phi. Cai trị trong thế kỷ
**Ý xâm chiếm Somaliland thuộc Anh** là một chiến dịch ở vùng Sừng châu Phi xảy ra mùa hè 1940 và là một phần của Chiến dịch Đông Phi trong Chiến tranh thế giới lần
**Samo ku waar** (tiếng Ả Rập: حياة طويلة مع السلام, tiếng Việt: "Muôn năm hòa bình") là bản quốc ca của Somaliland, một quốc gia tự tuyên bố được quốc tế công nhận như một
**Berbera** (, ) là một thành phố ở vùng Woqooyi Galbeed của Cộng hòa Somaliland (một nhà nước tự tuyên bố độc lập). Đây là thành phố lớn thứ ba Somaliland và đóng vai trò
**Laas Geel** (), còn viết là **Laas Gaal**, là một quần thể hang hốc đá nằm ở ngoại thành nông thôn của Hargeisa, Somalia (trong vùng Woqooyi Galbeed của nước cộng hoà ly khai Somaliland).
**Hargeisa** (, ) là thành phố lớn thứ hai tại Somalia, thuộc vùng Woqooyi Galbeed. Hargeisa là thủ đô của Somaliland, một nước cộng hòa tự xưng song được quốc tế nhìn nhận là một
**Sân bay quốc tế Hargeisa Egal** (tiếng Somali: _Madaarka Hargeysa ee Calaamiga_) - là một sân bay quốc tế phục vụ cho Hargeisa ở Somaliland. Hargeisa là sân bay quốc tế lớn thứ hai của
**Somalia** (phiên âm tiếng Việt: **Xô-ma-li-a**, ; ), tên chính thức **Cộng hòa Liên bang Somalia** (, ) là một quốc gia nằm ở Vùng sừng châu Phi. Nước này giáp với Djibouti ở phía
**Edna Adan Ismail** () (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1937) là Bộ trưởng Ngoại giao của Somaliland từ 2003 đến 2006, và trước đây đã từng là Bộ trưởng Bộ phúc lợi và phát
Danh sách này bao gồm các loại tiền tệ ở hiện tại và trong quá khứ. Tên địa phương của tiền tệ được sử dụng trong danh sách này kèm theo tên quốc gia hoặc
**HMS _Ceres_ (D59)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương _C_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất,
**Aswan Jibril Harmud** là một luật sư đến từ Somaliland, và là nữ Công tố viên đầu tiên ở Somaliland. Năm 2010, Harmud chính thức trở thành nữ công tố viên đầu tiên ở Somaliland.
**Đông Phi thuộc Ý** () là một thuộc địa của Ý ở vùng Sừng châu Phi. Nó được thành lập vào năm 1936 thông qua việc sáp nhập Somaliland thuộc Ý, Eritrea thuộc Ý và
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
Cộng hòa Somalia được thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1960 sau sự hợp nhất của Lãnh thổ Ủy thác mới độc lập của Somalia (Somaliland thuộc Ý cũ) và Nhà nước Somaliland
phải|thumb|[[Puerto Rico đôi khi được gọi là thuộc địa lâu đời nhất thế giới.]] Trong chính trị và lịch sử, **thuộc địa** là một vùng lãnh thổ chịu sự cai trị trực tiếp về chính
283x283px|nhỏ|Quốc kỳ Somalia **Quốc kỳ Somalia** () là một lá cờ gồm có một ngôi sao màu trắng trên nền màu xanh da trời. Lá cờ này được chính thức thông qua làm quốc kỳ
**Đơn vị tiền tệ có giá trị thấp nhất** là loại tiền tệ mà một đơn vị của nó mua được ít tiền ngoại tệ nhất hoặc mua được ít thức ăn nhất. Thông thường,
**Jubaland** (, , ), **Thung lũng Juba** () hay **Azania** (, ), là một nhà nước thành viên liên bang ở miền nam Somalia. Biên giới phía đông của nó nằm cách sông Jubba về
**Danh sách các phong trào ly khai đang hoạt động** bao gồm các phong trào ly khai đang hoạt động ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Tất cả các phong trào ly khai
**Đế quốc Ý** () hay **Đế quốc thực dân Ý** () là tập hợp các thuộc địa, xứ bảo hộ, đất nhượng bộ, lãnh thổ phụ thuộc và lãnh thổ ủy thác của Vương quốc
**Xe tăng Centurion** được giới thiệu năm 1945, là xe tăng chủ lực của quân đội Anh giai đoạn sau Thế chiến thứ hai. Nó được xem là một trong những thiết kế tăng thành
**Mũi Hafun** (chữ Somali: _Ras Xaafuun_, chữ Ả Rập: رأس حافون, chữ Ý: _Capo Hafun_), nằm ở trong lãnh thổ Somalia, là điểm cực đông của châu Phi, phía đông giáp Ấn Độ Dương, thực
**Khối Thịnh vượng chung Các Quốc gia** (, thường gọi là **Khối Thịnh vượng chung Anh**; trước đây là **Khối Thịnh vượng chung Các quốc gia của Anh** - _British Commonwealth of Nations_), là một
**Liên minh Bưu chính Quốc tế** hay **Liên hiệp Bưu chính Quốc tế** (tiếng Anh: _Universal Postal Union_ hay viết tắt **UPU**, tiếng Pháp: _Union postale universelle_) là một Tổ chức Quốc tế điều hợp
nhỏ|Lãnh thổ Ủy thác Liên Hợp Quốc tại châu phi **Các Lãnh thổ Ủy thác Liên Hợp Quốc** (_United Nations Trust Territories_) là hậu thân của các Lãnh thổ Ủy trị Hội Quốc Liên (_League
Lavochkin **S-75 Dvina** (tiếng Nga: С-75 Двина; tên ký hiệu của NATO: **SA-2 _Guideline**_) là một tổ hợp tên lửa đất đối không (SAM) tầm cao được điều khiển bằng hệ thống ra đa ba
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Colonial_Africa_1913_map.svg|nhỏ|300x300px|Bản đồ các thuộc địa châu Phi của các đế quốc châu Âu vào năm 1913 (Bỉ (vàng), Anh (hồng da cam), Pháp (xanh lam), Đức (ngọc lam), Ý (xanh lục), Bồ Đào Nha (tím)
**Thành phố Djibouti** (, , , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất Djibouti, nằm bên vịnh Tadjoura. Vùng đô thị Thành phố Djibouti có dân số khoảng 529.000 người, tức hơn 70%
**Danh sách quốc kỳ** của các quốc gia trên thế giới. ## Quốc gia là thành viên Liên Hợp Quốc ### A File:Flag of the Taliban.svg|Quốc kỳ Afghanistan Tập tin:Flag of Egypt.svg|Quốc kỳ
**Puntland** (, ) là một khu vực ở đông bắc Somalia, trung tâm ở Garowe ở tỉnh Nugaal. Các nhà lãnh đạo của khu vực này đã tuyên bố trên lãnh thổ một nhà nước
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
**Arta** (, ) là một thị xã ở đông nam Djibouti, thủ phủ của vùng Arta. Đây là đô thị lớn thứ sáu tại đất nước với 11.043 người. Arta nằm trên dãy núi cùng
Đây là danh sách các lá cờ ở châu Phi. Các lá cờ có thể là quốc kỳ hoặc cờ chính thức của các tổ chức, đoàn thể ở châu lục này. thumb|Đây là bản
Đây là danh sách thống kê về tổng sản phẩm quốc nội, giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ từ một quốc gia trong một năm. Được thống kê bởi
**Khadra Hussein Mohammad** là một luật sư người Somalia, người đã trở thành Phó công tố viên quốc gia đầu tiên ở Somaliland vào năm 2010. Bà được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
[[Tập tin:Two Chinas.svg|thumb|293x293px|Quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới và Đài Loan.
]] **Trung Hoa Dân Quốc (THDQ)**, thường được gọi là **Đài Loan**, hiện tại có quan hệ ngoại
**Guduuda 'Arwo** hoặc **Guduudo Carwo**, tên thật **Shamis Abokor**, là một ca sĩ người Somalia. Cô là một ca sĩ cho Đài phát thanh Hargeisa ở Hargeisa, trên tây bắc de facto nước có chủ
**Arta** (, ) là một trong sáu vùng của Djibouti. Vùng này chính thức được thành lập vào năm 2003 với việc sáp nhập các huyện của hai vùng Dikhil và Djibouti. Nó nằm ở
**Chiến tranh Ogaden**, còn gọi là **Chiến tranh Ethiopia-Somalia**, là một cuộc tấn công quân sự của Somalia từ tháng 7 năm 1977 đến tháng 3 năm 1978 sang khu vực tranh chấp Ogaden do
**_Somali_ (T-53/F03/F703/A607)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
**Danh sách các vùng có khí hậu cận nhiệt đới** này liệt kê cụ thể các địa điểm được coi là thuộc vùng cận nhiệt đới. Cận nhiệt đới là các khu vực địa lý
Hai tàu chiến của Hải quân Pháp từng được đặt cái tên **_Somali_**, theo tên người Somali tại thuộc địa Somaliland thuộc Pháp ở châu Phi: * _Somali_ là một tàu khu trục lớp _Arabe_
Danh sách này liệt kê những người nổi tiếng đã mắc bệnh (dương tính) do đại dịch COVID-19 gây ra bởi virus SARS-CoV-2. Thống kê đến 31 tháng 12 năm 2020 và còn cập nhật