✨Eritrea

Eritrea

Eritrea (Tiếng Việt: Ê-ri-tơ-rê-a; , ), quốc hiệu là Nhà nước Eritrea, là một quốc gia châu Phi, giáp Sudan về phía tây, Ethiopia về phía nam và Djibouti về phía đông nam. Phần phía đông và đông bắc Eritrea còn có các đảo ven bờ trong biển Đỏ. Quần đảo Dahlak và rất nhiều đảo thuộc quần đảo Hanish thuộc lãnh thổ Eritrea. Eritrea có diện tích 118,000 km² và dân số ước tính khoảng hơn 6 triệu người người. Thủ đô là Asmara.

Vương quốc Ý từng thuộc địa hoá Eritrea, đầu tiên là mua lại Assab vào năm 1869, sau đó xâm chiếm và mở rộng lảnh thổ về phía Đế quốc Ethiopia và thành lập ra thuộc địa vào năm 1890 với tên gọi Eritrea thuộc Ý, và đây cũng là thuộc địa đầu tiên của Ý. Năm 1936, thuộc địa Eritrea cùng với Ethiopia thuộc Ý và Somaliland thuộc Ý hợp nhất trở thành Đông Phi thuộc Ý (Ý Đông Phi), một phần của Đế quốc thuộc địa Ý. Người Anh thế chân người Ý quản lý Eritrea vào năm 1941 dưới danh nghĩa vùng đất ủy trị của Hội Quốc Liên đến năm 1951 khi Eritrea liên kết với Ethiopia thông qua nghị quyết 390 của Liên Hợp Quốc (tháng 12 năm 1950).

Cũng từ thời điểm này, tại Eritrea người dân nổi dậy chống lại sự hợp nhất với Ethiopia. Hành động này châm ngòi cho việc đi đến quyết định của chính phủ Ethiopia tuyên bố Eritrea là tỉnh thứ 14 của Ethiopia vào năm 1962. Hành trình tìm kiếm lại độc lập của Eritrea kéo dài 31 năm và kết thúc vào năm 1991 với sự trung gian hòa giải của Liên Hợp Quốc. Theo đó sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về tương lai của Eritrea và người dân Eritrea đã chọn con đường trở thành một nước độc lập. Eritrea tuyên bố độc lập và được quốc tế công nhận vào năm 1993.

Eritrea hiện là thành viên Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Phi và quan sát viên Liên đoàn Ả Rập.

Lịch sử

Vào thời cổ đại, vùng lãnh thổ Eritrea hiện nay thuộc về vương quốc Aksum rồi đến vương quốc Ethiopia. Vùng này thuộc quyền kiểm soát của Đế quốc Ottoman vào thế kỷ XVI. Năm 1889, lãnh thổ này bị Italia xâm chiếm và trở thành thuộc địa Italia theo Hiệp ước Uccialli. Người Italia đặt tên cho thuộc địa này theo tên biển Đỏ bằng tiếng La tinh, More Erythraeum. Thực dân Italia lấy nơi đây làm căn cứ xuất phát để xâm lược Ethiopia vào các năm 1896 và 1936.

Năm 1941, quân Đồng minh giải phóng Ethiopia. Eritrea thuộc quyền kiểm soát của quân đội Anh.

Năm 1952, Eritrea trở thành quốc gia liên bang tự trị thuộc Ethiopia và bị sáp nhập hoàn toàn vào Ethiopia năm 1962. Từ năm 1961, Mặt trận Giải phóng Eritrea phát động các cuộc đấu tranh vũ trang. Do sự chi phối của người Hồi giáo, phong trào này phân chia thành Mặt trận Giải phóng Eritrea và Mặt trận Giải phóng Dân tộc Eritrea năm 1970.

Sau khi Tổng thống Mengistu của Ethiopia bị lật đổ, chế độ mới ở Ethiopia chấp nhận nguyên tắc trưng cầu ý dân về quyền tự quyết Eritrea giành được độc lập năm 1993. Từ năm 1998, xung đột biên giới giữa Eritrea và Ethiopia gia tăng lên tầm mức của một cuộc chiến tranh, gây tổn thất lớn: cả hai đất nước nghèo khổ này đã tốn hàng triệu USD để mua máy bay chiến đấu và vũ khí. Khoảng 80.000 người bị chết và nhiều người phải đi tị nạn. Eritrea bị thất bại trước quốc gia láng giềng hùng mạnh và đông dân hơn, một Hiệp định hòa bình được ký kết vào tháng 12 năm 2000. Liên Hợp Quốc đã triển khai hơn 4.000 quân tiếp tục giám sát vùng đệm giữa hai nước.

Tháng 4 năm 2002, một ủy ban về biên giới quốc tế đã giải quyết những tranh chấp biên giới giữa hai nước.

Hiện nay, Eritrea vẫn duy trì hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc, và khu vực biên giới chung dài 25 km với Ethiopia. Một uỷ ban Quốc tế, được thành lập để giải quyết cuộc xung đột biên giới đã công bố những kết luận của mình nhưng việc phân định ranh giới lần cuối vẫn chưa được thực hiện do sự phản đối từ phía Eritrea.

Trong cuộc bầu cử đầu tiên sau khi giành độc lập vào năm 1993, Isaias Afewerki đã đắc cử với 95% số phiếu ủng hộ.

Hệ thống hành chính

Eritrea được chia thành 6 vùng (zobas) và các vùng được chia thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là quận ("sub-zobas"). Điểm đặc biệt là ranh giới các vùng được phân chia dựa trên đường phân thủy của các lưu vực sông. Việc này thực hiện cùng lúc hai mục đích của chính phủ trung ương là trao quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý khả năng phát triển nông nghiệp và loại bỏ các yếu tố xung đột gây ra trong lịch sử liên quan đến tranh chấp tài nguyên nước. nhỏ|phải|Các vùng hành chính ở Eritrea Các vùng với các quận của Eritrea gồm:

Chính trị và chính phủ

Tòa nhà chính phủ Eritrea ở [[Asmara.]]

Eritrea là một quốc gia độc đảng dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Nhân dân Vì Dân chủ và Pháp lý (People's Front for Democracy and Justice, PFDJ).. Các nhóm chính trị khác không được phép hoạt động mặc dù Hiến pháp (không được thực thi) năm 1997 quy định sự tồn tại của đa đảng. Quốc hội Eritrea có 150 ghế trong đó EPLF chiếm 75 ghế. Các cuộc tổng tuyển cử đã được lên kế hoạch nhưng đều bị hủy bỏ, chưa có một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại quốc gia này . Các nguồn thông tin về hoạt động chính trị địa phương ở Eritrea hiếm khi được công bố. Tháng 9 năm 2001 chính phủ đóng cửa tất cả các cơ quan truyền thông tư nhân, những người có tiếng nói bất đồng đều bị bắt giam mà không cần xét xử .

Tổng tuyển cử

Tổng tuyển cử toàn quốc Eritrea được dự trù thực hiện trong năm 1995 nhưng sau đó trì hoãn đến 2001 với lý do là 20% lãnh thổ quốc gia còn bị Ethiopia chiếm giữ, các cuộc tổng tuyển cử sẽ được tiến hành sau khi xung đột với Ethiopia được giải quyết. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử ở địa phương vẫn được tiến hành. Vòng bầu cử ở địa phương được tiến hành gần đây nhất là vào tháng 5 năm 2004.

Quan hệ ngoại giao

Eritrea là thành viên chính thức của tổ chức Cộng đồng Phi Châu (African Union-AU), tiền thân của Liên minh châu Phi ngày nay nhưng nước này đã rút quan sát viên khỏi tổ chức này vì cho rằng nước này đã không hành động đủ mạnh trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa Eritrea và Ethiopia.

Mối quan hệ Eritrea và Hoa Kỳ khá phức tạp. Mặc dù hai quốc gia đã từng sát cánh trong cuộc chiến chống khủng bố nhưng mối quan hệ không mấy tốt đẹp ở các lĩnh vực khác. Từ tháng 11 năm 2008, mối quan hệ này trở nên xấu hơn khi trợ lý thư ký Hoa Kỳ Jendayi Frazer gọi Eritrea là quốc gia bảo trợ khủng bố và chính phủ Mỹ liệt nước này vào Trục ma quỷ gồm Iran và Cuba . Lý do của hành động này là do sự hiện diện tại một cuộc họp của nhóm đối lập được tổ chức tại Asmara của Sheikh Hassan Dahir Aweys, một lãnh đạo Hồi Giáo li khai Somali có quan hệ với nhóm khủng bố Al Queda. Các trừng phạt về kinh tế có thể sẽ sớm được áp dụng

Mối quan hệ với Italia và EU cũng căng thẳng trong ba năm trở lại đây.

Mối quan hệ với Ethiopia chuyển từ liên minh sang thù địch đưa đến cuộc chiến tranh từ tháng 5.1998 đến tháng 6.2000. Cuộc chiến này đã làm 123,000 người Ehiopia và 19,000 người Eritrea bỏ mạng .

Eritrea cũng có những xung đột biên giới với Sudan, một cuộc chiến với Yemen về chủ quyền quần đảo Hanish nổ ra năm 1996 và gần đây là các xung đột biên giới với Ethiopia.

Chính phủ và sự kiểm duyệt báo chí

Trong hai năm 2007 và 2008, tổ chức Phóng viên không biên giới xếp Eritrea hạng 169 toàn cầu trong Chỉ số tự do báo chí toàn cầu hằng năm. Eritrea thay thế vị trí cuối bảng được Bắc Triều Tiên nắm giữ trong nhiều năm . Tổ chức này khẳng định rằng ở Eritrea các tờ báo tư nhân đã bị đóng cửa và bị chính phủ của tổng thống Isaias Afewerki xua đuổi. Tác giả của những bài báo có ý kiến phê bình chính phủ lập tức bị bỏ tù và trong số rất nhiều nhà báo bị cầm tù, 4 người đã chết trong sự giam cầm

Môi trường

Eritrea là quê hương của nhiều quần thể voi. Các vua Ptoleme của Ai Cập đã từng sử dụng chúng như một lực lượng tham gia chiến đấu trong thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Trong khoảng thời gian từ 1955 đến 2001, không có một báo cáo nào cho thấy sự tiếp tục hiện diện của voi và chúng được cho là nạn nhân của chiến tranh giành độc lập. Tháng 12 năm 2001, người ta phát hiện khoảng 30 con với khoảng 10 con nhỏ gần sông Gash.

Năm 2006, Eritrea trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giời chuyển toàn bộ vùng đất duyên hải thành khu bảo tồn thiên nhiên. Một khu vực với 1,347 km (837 dặm) đới ven bờ, cùng với 1,946 km (1,209 dặm) đường bờ với hơn 250 đảo nằm dưới sự bảo tồn của chính phủ.

Kinh tế

nhỏ|Đàn ông ở [[Agordat]]

Giống như phần lớn các quốc gia Phi Châu khác, nền kinh tế Eritrea chủ yếu dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp với 80% dân số làm việc trong ngành trộng trọt và chăn nuôi. Hạn hán là nguyên nhân thiên tai chủ yếu tác động đến nền nông nghiệp nước này.

Cuộc chiến giành độc lập với Ethiopia đã gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế. GDP giảm 1% vào năm 1999 và 2% vào năm 2000. Năm 2000, quân đội Ethiopia mở một cuộc tấn công lớn và miền Nam Eritrea gây thiệt hại 600 triệu USD cho nền kinh tế với 225 triệu tổn thất từ gia súc và 55,000 nhà cửa bị phá hoại. Cuộc tấn công này nhắm đến vùng sản xuất lương thực chính yếu của Eritrea gây ra việc sụt giảm 62% sản lượng nông nghiệp

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Eritrea cũng đã nỗ lực phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như mở đường, cải thiện hệ thống cảng, sửa chữa những cung đường và cầu bị tàn phá do chiến tranh như là một phần của chương trình Warsay Yika'alo. Thành quả quan trọng nhất của dự án này là việc xây dựng tuyến quốc lộ ven biển dài hơn 500 km nối Massawa với Asseb cũng như khôi phục tuyến đường sắt quốc gia.

Tương lai nền kinh tế Eritrea khá mờ ám. Việc cắt đứt giao thương với Ethioipia, quốc gia trước đây luôn sử dụng các cảng của Eritrea để xuất nhập hàng hóa, để lại cho Eritrea nhiều lỗ hổng cần khỏa lấp. Tương lai nền kinh tế dựa vào nội lực của nền kinh tế cũng như giải quyết những vấn đề bức thiết như nạn mù chữ cao, lao động thiếu tay nghề, cơ sở hạ tầng lạc hậu.

Một báo cáo ngày 6 tháng 5 năm 2008 cho thấy Eritrea là quốc gia có giá nhiên liệu cao nhất thế giới với một gallon xăng có giá 9.58USD, cao hơn 85 cent so với quốc gia đứng thứ hai là Na Uy .

Hiện nay, tương lai của kinh tế Eritrea phụ thuộc vào khả năng giải quyết của Chính phủ trong các vấn đề xã hội như nạn mù chữ, thất nghiệp, trình độ kỹ năng tay nghề yếu kém cũng như thực sự thúc đẩy quá trình tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ có thực hiện như vậy mới có thể tạo ra các nguồn lực để phát triển nền kinh tế.

Năm 2009, tổng sản phẩm quốc nội của Eritrea đạt 4,1 tỷ USD, tăng 2,5% so với năm 2008.

Hiện nay, nông nghiệp thu hút tới 80% lực lượng lao động nhưng chỉ đóng góp vàp khoảng 17,3% GDP của nước này (2009). Các nông sản chính của Eritrea là lúa miến, đậu lăng, rau, ngô, bông, sợi bông, thuốc lá, cà phê, sợi sidan, vật nuôi, dê..

Công nghiệp của Eritrea khá nhỏ bé, đóng góp vào 23,2% GDP. Các ngành công nghiệp chính của nước này là: chế biến thực phẩm, bia, ngành dệt may, sản xuất xi măng, muối, sửa chữa tàu thương mại.

Dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP với tỉ trọng hiện nay là 59,5% (2009).

Về ngoại thương, năm 2009, Eritrea xuất khẩu 12 triệu USD hàng hoá các loại. Trong đó các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của đất nước này là vật nuôi, lúa miến, hàng dệt may, thực phẩm, và các sản phẩm sơ chế khác. Các thị trường xuất khẩu chính của Eritrea là Ireland, Mỹ, Italia và Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu của Eritrea đạt 590 triệu USD. Các mặt hàng mà nước này thường nhập là máy móc thiết bị, sản phẩm dầu lửa, thực phẩm và đồ tiêu dùng khác. Các đối tác nhập khẩu lớn của Eritrea là Ả Rập Xê Út, Ý, Ai Cập, Ấn Độ, Đức, Trung Quốc.

Xã hội

Dân cư

Một đám cưới tại Eritrea

Eritrea là một quốc gia đa chủng tộc. Một cuộc điều tra dân số độc lập cho thấy người Tigrinya và người Tigre chiếm 80% dân số. Hai nhóm này đều là những dân tộc nói ngôn ngữ Semit.

Phần còn lại của dân số là tập hợp của những nhóm người Phi-Á như người Saho, Hedareb, Afar, và Bilen. Những nhóm người này được xem là thổ dân đầu tiên của vùng Sừng châu Phi. Ngoài ra còn có một số dân tộc thuộc nhóm Nilotic. Tại Asmara còn có sự hiện diện của một số ít người Eritrea gốc Ý và người Tigray gốc Ethiopia.

Mỗi một tộc người có một ngôn ngữ riêng, rất nhiều nhóm thiểu số sử dụng nhiều hơn một ngôn ngữ trong đời sống hằng ngày.

Nhóm người mới nhất ở Eritrea là người Rashaida. Họ di cư vào nước này vào thế kỷ XIX từ phía bên kia bờ Hồng Hải. Họ là những cư dân du mục, có quan hệ hôn phối với người Tigre và Beja. Tổng dân số của nhóm này khoảng 61,000 người, chiếm khoảng 1% dân số.

Những nhóm thiểu số ít có sự tác động đến đời sống của Eritrea.

Ngôn ngữ

nhỏ|Người [[Rashaida ở Hạ Eritrea]]

Eritrea là một quốc gia đa ngôn ngữ, không có ngôn ngữ chính thức. Hiến pháp thiết lập "sự bình đẳng của tất cả ngôn ngữ Eritrea". Tiếng Tigrinya là ngôn ngữ chính thức trên thực tế của quốc gia. Với tổng cộng 2.540.000 người nói trên dân số 5.254.000 (2006), đây là ngôn ngữ phổ biến nhất, đặc biệt ở phần bắc và trung Eritrea. Những ngôn ngữ lớn khác gồm tiếng Afar, tiếng Ả Rập, tiếng Beja, tiếng Bilen, tiếng Kunama, tiếng Nara, tiếng Saho và tiếng Tigre. Tiếng Tigrinya, cùng với tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại và tiếng Anh, là những ngôn ngữ làm việc. Tiếng Ý được dạy tại trường tiểu học và trung học.

Giáo dục

Có 5 cấp học tại Eritrea gồm Mẫu giáo, Tiểu học, Trung Ấu, Trung học Cơ Sở, và Hậu Trung học Cơ Sở. Có gần 238,000 học sinh đang theo học Tiểu học, Trung Ấu, Trung học Cơ Sở, và Hậu Trung học Cơ Sở. Toàn quốc có khoảng 824 trường học và 2 Đại học (Đại học Asmara và Viện Khoa Học và Công nghệ) cũng như nhiều trường Cao đẳng và Trung Cấp Nghề khác.

Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục Eritrea là cung cấp giáo dục căn bản cho người dân bằng tiếng mẹ đẻ cũng như phát triển khả năng tự tư duy của học sinh để chống lại đói nghèo và bệnh tật. Xa hơn là trang bị cho học sinh những kỹ năng làm việc cần thiết trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi.

Hệ thống giáo dục Eritrea cũng được thiết kế để khuyến khối doanh dân mở trường đào tạo, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng đến mọi người như chống phân biệt giới tính, chống phân biệt chủng tộc, chống phân biệt tầng lớp trong xã hội, và thúc đẩy việc học tập suốt đời của người dân.

Rào cản trong giáo dục Eritrea là những định chế truyền thống, học phí, và chi phí cơ hội của các gia đình có thu nhập thấp .

Tôn giáo

Eritrea có hai tôn giáo chính là Hồi giáo và Kitô giáo với số lượng tín đồ xấp xỉ nhau. Phần lớn tín đồ Hồi Giáo thuộc phái Sunni, tín đồ Cơ Đốc thuộc dòng Chính Thống giáo và một số lượng tương đối lớn người theo Công giáo La Mã. Tin Lành và các nhóm khác cũng hiện diện trong đời sống tâm linh của nước này.

Từ tháng 5 năm 2002, chính quyền Eritrea chính thức công nhận sự hoạt động của các tôn giáo: Chính Thống giáo, (Hồi giáo Sunni), Công giáo La Mã, và Giáo hội Luther. Các nhóm khác muốn tự do hoạt động phải trải qua một quá trình đăng ký nghiêm ngặt. Một trong những yêu cầu đó là các nhóm tôn giáo được yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân của các tín đồ cho nhà chức trách. Một số tổ chức tôn giáo dù đã đáp ứng tất cả các yêu cầu của chính phủ vẫn chưa được cấp phép hoạt động nhỏ|trái|Nhà thờ Enda Mariam Orthodox, Roman Catholic Cathedral, đằng sau là thánh đường Hồi Giáo Al Khulafa Al Rashiudin tại thủ đô [[Asmara.]]Các nhóm Nhân Chứng Giê-hô-va, Bahá'í Faith, Seventh-day Adventist Church, và rất nhiều giáo phái Tin Lành không được cấp giấy phép và không thể hoạt động tự do. Chính phủ đã thực thi các lệnh cấm một cách có hiệu quả và nhiều giải pháp đã được đưa ra để ngăn chặn các tín đồ hành lễ. Nhiều người đã bị tống giam trong thời gian dài. Không một cái có cơ hội tiếp cận đến tòa án để khiếu kiện công bằng. Bảng báo cáo năm 2006 về Quyền Tự Do tín ngưỡng của Ủy ban Tôn Giáo Hoa Kỳ đã xếp Eritrea 3 năm liên tiếp vào nhóm nước "Đặc biệt lo ngại" về tự do tín ngưỡng .

Có một số ít người Do Thái còn tiếp tục sinh sống tại Eritrea, họ hình thành một cồng đồng của vài trăm người sinh sống tại thủ đô Asmara. Họ là con cháu của người Do Thái đã vượt biển từ Aden (Yemen) sang vào nửa cuối thế kỷ XIX .

Văn hóa

nhỏ|Món ăn truyền thống Kitcha fit-fit

Eritrea có sự giao lưu thương mại từ lâu đời với nhiều quốc gia trên thế giới, điều này thể hiện rõ nét trong một nền văn hóa đa dạng của đất nước. Thủ đô Asmara là nơi diễn ra sự giao lưu mạnh mẽ nhất. tại đây người ta có thể thấy sự hiện diện của các quán cà phê phục vụ các thức uống tương tự như tại Ý. Ở đây cũng đồng thời hiện diện sự pha trộn ven hóa bản xứ của người Tigrinya với văn hóa Ý. Điều này gần như không thấy xuất hiện tại các vùng nông thôn.

Trong thời thuộc địa và những năm đầu lập quốc, các phim Ấn của Bollywood thịnh hành tại thành thị trong khi phim Mỹ và Ý thì được trình chiếu trong các rạp. Sự thay đổi đã diễn ra vào những năm 1980 và khi Eritrea độc lập từ Ethiopia, phim Mỹ dần trở nên phổ biến. Sự cạnh tranh còn có sự tham gia của những nhà làm phia địa phương.

Trang phụ truyền thống của người Eritriea tương đối đa dạng. Phụ nữ vùng thấp mặc đầm truyền thống có màu nhạt trong khi áo đầm truyền thống của người Tigrinya có màu trắng nhẹ. Người Hồi giáo vẫn giữ trang phục truyền thống của họ với mạn che đầu.

Các môn thể thao phổ biến ở Eritrea có bóng đá và cưỡi xe đạp. Trong những năm gần đây, các vận động viên điền kinh của Eritrea đạt được những thành công nhất định trên đấu trường quốc tế.

Gần như duy nhất ở lục địa đen có một giải đua xe đạp quy mô lớn là Tour of Eritrea. Giải đấu này được hình thành từ thời thuộc địa, năm 1946 . Đường đua bắt đầu từ những bãi biển của Masawa để leo lên vùng cao với các thung lũng và hẻm vực của thủ đô Asmara. Từ đây, các coureur để đèo để xuống vùng đất thấp Gash-Barka Zone, và trở về thủ đô từ hướng Nam.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Eritrea** (Tiếng Việt: **Ê-ri-tơ-rê-a**; , ), quốc hiệu là **Nhà nước Eritrea**, là một quốc gia châu Phi, giáp Sudan về phía tây, Ethiopia về phía nam và Djibouti về phía đông nam. Phần phía
**Chiến tranh Eritrea–Ethiopia**, còn được gọi là **Chiến tranh Badme**, là một cuộc xung đột vũ trang lớn giữa Ethiopia và Eritrea diễn ra từ tháng 5 năm 1998 đến tháng 6 năm 2000, với
Là một phần của xung đột tại Sừng Phi châu, **Xung đột biên giới Eritrea–Ethiopia** là những vụ bạo lực bế tắc giữa Eritrea và Ethiopia. Xung đột biên giới Eritrea–Ethiopia gồm những vụ va
**Eritrea thuộc Ý** (tiếng Ý: _Colonia Eritrea_, _Thuộc địa Eritrea_) là thuộc địa của Vương quốc Ý trên lãnh thổ của Eritrea ngày nay. Đây được xem là vùng đất thuộc địa đầu tiên của
**Tổng công ty Dịch vụ Viễn thông Eritrea** (trước đây có tên là **Dịch vụ Viễn thông Eritrea**), thường được gọi là **EriTel**, là nhà điều hành duy nhất cơ sở hạ tầng liên lạc
**Cần sa ở Eritrea** là bất hợp pháp và phải chịu các hình phạt nghiêm khắc cho việc sản xuất, bán và sở hữu cần sa cho mục đích y tế hoặc giải trí. Người
**Quốc kỳ Eritrea** (tiếng Ả Rập: علم إريتريا) được ấn định vào ngày 24 tháng 5 năm 1993. ## Đặc điểm Quốc kỳ Eritrea hiện nay vốn là biến thể của đoàn kỳ Mặt trận
Công dân của tất cả các nước trừ Uganda phải xin thị thực để đến Eritrea. Công dân của Sudan có thể xin thị thực tại cửa khẩu. Với các trường hợp còn lại, thị
**Liên đoàn bóng đá quốc gia Eritrea** () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Eritrea. Liên đoàn quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Eritrea và tổ
**Eritrea** đã tham gia Thế vận hội Mùa đông 2018 ở Pyeongchang, Hàn Quốc, từ ngày 9 đến 25 tháng 2 năm 2018. Đây là lần đầu tiên quốc gia này góp mặt tại Thế
Danh sách các thành phố ở Eritrea theo số dân, bao gồm các làng mạc trên 5.000 người. Eritrea Eritrea Thành
**Keren** là một thành phố của Eritrea. Thành phố thuộc vùng Anseba, thành phố có dân số năm 2005 ước khoảng 86.483 người, là thành phố lớn thứ nhì quốc gia này, sau thủ đô
**Ngân hàng Eritrea** là ngân hàng trung ương của nhà nước Eritrea. Ngân hàng được đặt tại Asmara, thủ đô của nước này. Ngân hàng trung ương này quan tâm đến việc khuyến khích
Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính ở Eritrea. Hơn 80% lực lượng lao động chính ở Eritrea được sử dụng trong nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm 11% giá trị của nền kinh tế
Bài viết này ghi lại các tác động của đại dịch COVID-19 ở Eritrea, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính hiện đại. ## Dòng thời gian
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Eritrea** () là đội tuyển cấp quốc gia của Eritrea do Liên đoàn bóng đá quốc gia Eritrea quản lý. Đội chưa từng tham dự giải vô địch bóng
Đây là **danh sách các câu lạc bộ bóng đá ở Eritrea**. _Về danh sách đầy đủ, xem :Thể loại:Câu lạc bộ bóng đá Eritrea_ ## A *Adulis Club *Air Force F.C. *Al Tahrir *Asmara
**Hiến pháp Eritrea** là hiến pháp của Nhà nước Eritrea. Nó cung cấp những nền tảng pháp lý cho sự tồn tại của Nhà nước và cơ sở pháp lý của cơ quan pháp lý.
nhỏ| Tòa trụ sở của Ngân hàng thương mại Eritrea ở [[Asmara ]] **Ngân hàng thương mại Eritrea** là một **ngân hàng** toàn cầu có trụ sở tại Asmara và là chi nhánh duy nhất
**Phong trào Dân chủ Giải phóng Kunama Eritrea** (viết tắt là **DMLEK**) là một nhóm phiến quân người Kunama hoạt động trên lãnh Eritrea. Nhóm này chủ yếu được tài trợ bởi diaspora ở Eritrea
**Mặt trận Dân chủ Thống nhất Eritrea** (**DFEU**) là một nhóm phiến quân hiện đang chiến đấu với chính phủ Eritrea. Họ được liên minh với Tổ chức Dân chủ Afar Biển Đỏ (RSADO), người
**Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Eritrea** phải đối mặt với những thách thức pháp lý mà những người không phải LGBT không gặp phải. Đồng tính luyến
Đây là **danh sách các đảo của Eritrea**. ## Quần đảo Dahlak * Dahlak Kebir (trước đây là Dehalak Deset) * Dhuladhiya * Dissei (trước đây là Đảo Valentia) * Dohul * Erwa * Harat
**Asmara** ( ) hoặc **Asmera**, là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Eritrea, thuộc vùng Trung tâm của đất nước. Nằm ở độ cao , đây là thủ đô cao thứ 6
"**Ertra, Ertra, Ertra**" (tiếng Việt: Eritrea, Eritrea, Eritrea) là quốc ca của Eritrea. Bài hát có hai phiên bản lời, một bản được viết năm 1986, bản cập nhật sau đó được viết năm 1993,
**Fesshaye Yohannes** là nhà báo người Eritrea, đã bị chính quyền Eritrea bắt giam mà không xét xử, và bị chết trong nhà tù. ## Sự nghiệp Yohannes trở thành nhà báo từ đầu thập
**Dawit Isaak** (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1964) là nhà soạn kịch, nhà báo và nhà văn người Thụy Điển gốc Eritrea. Ông đã bị cầm tù ở Eritrea từ năm 2001 mà không
**Đông Phi thuộc Ý** () là một thuộc địa của Ý ở vùng Sừng châu Phi. Nó được thành lập vào năm 1936 thông qua việc sáp nhập Somaliland thuộc Ý, Eritrea thuộc Ý và
**Ruth Simon** sinh khoảng năm 1962 là một nhà báo người Eritrea đã đoạt Giải Tự do Báo chí Quốc tế năm 1998. ## Sự nghiệp Simon cộng tác với Mặt trận Giải phóng Nhân
**Tiếng Tigre** ( _tigre_ hay ትግሬ _tigrē_), được biết đến nhiều hơn ở Eritrea với tên **Tigrayit** ትግራይት, và ở Sudan với tên **Xasa** ( _ḫāṣiyah_), là một Phi-Á được nói tại Đông Bắc Phi.
**Assab** hay **Aseb** (, __; ) là một thành phố cảng ở vùng Nam Biển Đỏ của Eritrea. Thành phố nằm ở phía tây Biển Đỏ. Các ngôn ngữ được sử dụng tại Assab là
**Tiếng Tigrinya** (cũng được ghi là _Tigrigna_; ) là một ngôn ngữ Phi-Á thuộc ngữ tộc Semit. Đây là một ngôn ngữ vùng Sừng châu Phi, có mặt ở Eritrea và bắc Ethiopia, với chừng
**Sân vận động Cicero** là một sân vận động đa năng ở Asmara, Eritrea. Với sức chứa 6.000 người, hiện tại sân được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. ## Lịch
**Saba Kidane** (sinh năm 1978), là một nhà báo, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị người gốc Eritrea (một quốc gia ở Đông Phi). Sinh ra ở Asmara, Saba Kidane và phải bỏ
**Hannah Azieb Pool** (sinh năm 1974) là một nhà văn và nhà báo người Anh-Eritrea. Cô được sinh ra gần thị trấn Keren ở Eritrea trong cuộc chiến giành độc lập từ Ethiopia. Cô là
thumb|Hình vẽ [[Maria|Maria Đồng trinh với con trai, từ một bản thảo Ge'ez của Weddasé Māryām, khoảng 1875.]] **Tiếng Geʽez** (, **' ; cũng được chuyển tự là **Giʻiz**), đôi khi gọi là **tiếng Ethiopia
**Tiếng Afar** (Afar: **Qafaraf**) (cũng được gọi là **’Afar Af**, **Afaraf**, **Qafar af**) là một ngôn ngữ Phi-Á, thuộc về nhánh ngôn ngữ Cush. Đây là ngôn ngữ của người Afar tại Djibouti, Eritrea và
**Agordat**; còn gọi là **Akordat** hay **Ak'ordat**) là một thành phố ở Gash-Barka, Eritrea. Đó là thủ đô của tỉnh Barka, được nằm giữa ngày nay Gash-Barka và Anseba. nhỏ|Hoàng hôn giữa Agordat và Keren
**Sân vận động Denden** là một sân vận động đa năng ở Asmara, Eritrea. Cơ sở được xây dựng vào năm 1958 bởi thành phố Asmara. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho
**Massawa** là một thành phố ở vùng Bắc Biển Đỏ của Eritrea, nằm gần quần đảo Dahlak. ## Địa lý ### Khí hậu Massawa có khí hậu sa mạc nóng (phân loại khí hậu Köppen
**Debarwa** ( ) là một thị trấn ở vùng Debub, Eritrea. Nó nằm cách thủ đô Asmara 25 km về phía nam. ## Lịch sử Debarwa từng là thủ đô của vương quốc cổ đại Medri
**Tesfaldet Tekie** (sinh ngày 4 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Thụy Điển gốc Eritrea thi đấu cho Östersunds FK, theo dạng cho mượn từ đội bóng Belgian Pro League
**Linh dương Heuglin** (danh pháp khoa học: _Eudorcas tilonura_), còn được gọi là **linh dương Eritrea**, là một loài linh dương được tìm thấy tại phía đông sông Nile ở Eritrea, Ethiopia và Sudan. Các
**Nhóm ngôn ngữ Semit Ethiopia** (còn gọi **Ethio-Semitic,** **Ethiosemitic,** **Ethiopia** hoặc **Abyssinia**) là một nhóm ngôn ngữ được nói ở Ethiopia, Eritrea và Sudan. Cùng với ngôn ngữ Nam bán đảo Ả Rập cổ đại,
**Ghinda** () là một thị trấn ở vùng Bắc Biển Đỏ của Eritrea. Nó nằm trong tiểu vùng Ghinda, giữa Asmara và Massawa. Vào năm 2004, thị trấn có dân số là 11.560 người. ##
**Adi Quala** (, ) là một thị trấn thương mại ở miền nam Eritrea. Nó nằm cách biên giới với Ethiopia gần 25 km, trên độ cao 2.000 m so với mực nước biển. ## Tổng
Vị trí của Hồng Hải **Biển Đỏ** còn gọi là **Hồng Hải** hay **Xích Hải** (tiếng Ả Rập البحر الأحم _Baḥr al-Aḥmar_, _al-Baḥru l-’Aḥmar_; tiếng Hêbrơ ים סוף _Yam Suf_; tiếng Tigrinya ቀይሕ ባሕሪ _QeyH
**Sân bay quốc tế Massawa**, là một sân bay ở Massawa, thành phố ở vùng Bắc Biển Đỏ của Eritrea. Sân bay này hiện nay ít được sử dụng, có hãng hàng không Pakistan International
**_Pelophylax demarchii_** là một loài ếch thuộc họ Ranidae. Đây là loài đặc hữu của Eritrea. Tình trạng bảo tồn của nó hiện chưa đủ thông tin.
nhỏ|Vùng Nam Biển Đỏ (màu đỏ) **Vùng Nam Biển Đỏ** của Eritrea là một trong 6 vùng của Eritrea. Vùng này nằm dọc theo nửa phía nam của Biển Đỏ và có thành phố biển