Shenyang J-6 (Thẩm Dương J-6, – Tiêm-6; phiên bản xuất khẩu có tên gọi F-6
Mô tả
J-6 đạt vận tốc tối đa 1.540 km/h (960 mph), Mach 1,45. Trần bay đạt 17.900 m (58.700 ft). Bán kính chiến đầu với 2 thùng nhiên liệu bỏ được là khoảng 640 km (400 mi). Nó được trang bị 2 động cơ tuabin Liming Wopen-6A (Tumansky R-9). Ngoài vũ khí chính ban đầu là pháo, nó còn được lắp 4 giá treo dưới cánh, mỗi giá treo mang được tải trọng 250 kg (550 lb), tải trọng tối đa là một giá treo mang được là 500 kg (1.100 lb). Vũ khí J-6 có thể mang gồm bom, thùng rocket 55 mm gắn ngoài, hoặc tên lửa không đối không PL-2/PL-5 (phiên bản Trung Quốc của loại tên lửa Vympel K-13).
Lịch sử hoạt động
J-6 hiện vẫn đang được sử dụng ở Bắc Triều Tiên, Myanmar, Tanzania, Nepal và Zambia.
Albania
J-6 được Không quân Albania sử dụng để thay thế loại J-5, nó được dùng để tuần tra biên giới nhằm chống lại các cuộc xâm nhập không phận Albania từ Nam Tư. Tuy nhiên, J-6 không có hiệu quả khi phải đối đầu với những chiếc MiG-21 'Fishbed' nhanh hơn của Nam Tư. Khi F-7A được đưa vào trang bị, J-6 được tái triển khai để bảo vệ Tirana. Vào năm 2005, tất cả máy bay tiêm kích của Albania đều phải ngừng bay do thiếu phụ tùng thay thế.
Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan
nhỏ|Một chiếc F-6 của [[Không quân Pakistan.]]
F-6 được Không quân Pakistan (RAF) sử dụng từ năm 1965 tới năm 2002, thiết kế máy bay đã được sửa đổi tới 140 lần để cải thiện khả năng vai trò đánh chặn và chi viện không quân trực tiếp. Các máy bay tiêm kích F-6 của RAF đã tham gia Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971, nó đã bắn hạ 6 máy bay của Ấn Độ, trong đó có một chiếc MiG-21. 3 phi đoàn J-6 của Pakistan đã thực hiện gần 1000 phi vụ, PAF cũng đã mất 3 chiếc F-6 do hỏa lực phòng không và 1 chiếc khi không chiến. Một chiếc F-6 cũng bị bắn rơi bởi chính Pakista. Một trong các phi công bị bắn hạ là Wajid Ali Khan, Khan bị bắt làm tù binh chiến tranh và sau này trở thành một nghị sĩ trong Quốc hội Canada.
Chiến tranh Việt Nam
Sau khi bí mật thử nghiệm bay một chiếc F-6 của Không quân Pakistan vào năm 1965, Hoa Kỳ kết luận J-6 và MiG-19 là máy bay tiêm kích đáng gờm hơn so với loại MiG-21 'Fishbed' hiện đại và mạnh hơn, cũng như loại MiG-17 'Fresco' cũ hơn và phiên bản Trung Quốc của nó là J-5. Động cơ tuabin phản lực hiện đại hơn giúp tạo cho MiG-21 lợi thế bay ở vận tốc siêu âm, nhưng trong Chiến tranh Việt Nam với các cuộc chiến trên không thì lợi thế đó lại không hữu ích như người ta nghĩ, vì các cuộc không chiến chủ yếu diễn ra trong tầm gần nên máy bay có vận tốc dưới âm lại chiếm ưu thế hơn. J-6 (cũng như MiG-19) với vận tốc dưới âm đã dễ dàng cơ động hơn so với MiG-21 và dù nó chậm hơn, nhưng khi cần tăng tốc trong không chiến tầm gần thì nó vẫn có thể dễ dàng thực hiện. Không quân Bắc Việt có ít nhất một đơn vị sử dụng J-6 trong chiến tranh, đó là trung đoàn tiêm kích 925, bắt đầu từ năm 1969.
Chiến tranh Ogaden
J-6 của Somali đã tham chiến trong Chiến tranh Ogaden và chịu thiệt hại nặng do phi công đối phương có nhiều kinh nghiệm hơn. Trên 75% lực lượng của Không quân Somali bị tiêu diệt trong chiến tranh, nhưng một số chiếc J-6 vẫn sống sót cho đến ngày Somali rơi vào khủng hoảng đầu thập niên 1990.
Chiến tranh Uganda-Tanzania
Trong chiến tranh Uganda-Tanzania, những chiếc J-6 của Tanzania có nhiệm vụ tiêu diệt bất kỳ máy bay tiêm kích nào của Uganda như MiG-15 và MiG-17, trong khi F-7A có nhiệm vụ tiêu diệt các máy bay chiến đấu của quân đồng mình với Uganda như Tupolev Tu-22 'Blinder' của Libya.
Chiến tranh biên giới Tây Nam
Trong thời kỳ Khmer Đỏ nắm chính quyền ở Campuchia, J-6 của Khmer Đỏ đã tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam với Việt Nam trong vai trò máy bay cường kích. Khi Việt Nam phản kích quân Khmer Đỏ và tiến vào giải phóng Campuchia, không một chiếc máy bay nào của Campuchia dám cất cánh chặn đánh máy bay của Việt Nam. Quân đội Việt Nam đã bắt giữ được một số máy bay J-6 và đưa về để trưng bày.
Chiến tranh Afghan
Không quân Pakistan sử dụng J-6 để tấn công các mục tiêu của quân đội Liên Xô đóng ở Afghanistan, theo phía Pakistan tuyên bố thì J-6 đã có khoảng 6 lần bắn hạ máy bay của Liên Xô.
Chiến tranh Iran-Iraq
Trong Chiến tranh Iran-Iraq, cả hai phía đều sử dụng máy bay tiêm kích J-6. Máy bay tiêm kích J-6 của Iran có thể do Bắc Triều Tiên cung cấp. J-6 của Iraq có thể do Ai Cập chuyển giao. Hầu hết những chiếc J-6 này đều thực hiện nhiệm vụ cường kích.
Biến thể
nhỏ|F-6A
nhỏ|F-6B
*Shenyang J-6 - (hay còn gọi Kiểu 59, Đông phong-102, Sản phẩm 47* và F-6) Dù không có hậu tố định danh, tên gọi J-6 xuất hiện sau khi phiên bản sản xuất đầu tiên J-6A được đưa vào chế tạo. J-6 tương đương, nhưng không giống với phiên bản MiG-19S.
Shenyang J-6I – Mẫu thử tiêm kích ngày một chỗ. Phiên bản xuất khẩu có tên Shenyang FR-6**.
Shenyang/Tianjin JJ-6 Testbed (Thẩm Dương/Thiên Tân JJ-6) – phiên bản thử nghiệm ghế phóng thay thế cho mẫu thử nghiệm ghế phóng H-5.
;
Không quân Bắc Triều Tiên – 98 chiếc F-6 vẫn đang sử dụng (tính đến tháng 2/2011) 9 chiếc FT-6 vẫn còn sử dụng
Đặc điểm riêng
*Tổ lái*: 1
Chiều dài: 12.5 m (41 ft)
Sải cánh: 9.2 m (30 ft 2 in)
Chiều cao: 3.9 m (12 ft 10 in)
Diện tích cánh: 25.0 m² (270 ft²)
Trọng lượng rỗng: 5,447 kg (11,983 lb)
Trọng lượng cất cánh tối đa: 7,560 kg (16,632 lb)
Động cơ**: 2 động cơ tuabin đốt tăng lực Liming Wopen-6A (Tumansky RD-9B), lực đẩy 36.78 kN (8,267 lbf) mỗi chiếc
*Sức chứa nhiên liệu: 1,800 kg (3,960 lb)
Hiệu suất bay
*Vận tốc cực đại*: 1,540 km/h (960 mph)
Tầm bay: 640 km (400 mi); combat 2,200 km (1,375 mi)
Trần bay: 17,900 m (58,700 ft)
Vận tốc lên cao: 180 m/s (35,425 ft/min)
Lực nâng của cánh: 302.4 kg/m² (61.6 lb/ft²)
Lực đẩy/trọng lượng**: 0.86
Vũ khí
3 pháo 30 mm NR-30
Mang được 250 kg (550 lb) bom hoặc rocket hoặc tên lửa không đối không PL-2/PL-5 (phiên bản Trung Quốc của tên lửa K-13 (NATO: AA-2 'Atoll')) dưới 4 giá treo.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Shenyang J-6** (_Thẩm Dương J-6_, – Tiêm-6; phiên bản xuất khẩu có tên gọi **F-6** ### Mô tả J-6 đạt vận tốc tối đa 1.540 km/h (960 mph), Mach 1,45. Trần bay đạt 17.900 m (58.700 ft). Bán kính
**Shenyang J-11** (tiếng Trung: 歼-11) là một loại máy bay tiêm kích thế hệ thứ tư của Không quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc dựa trên kiểu máy bay Sukhoi Su-27SK. Ban đầu
**Shenyang J-15** (), còn gọi là _Cá mập bay_ (, Bính âm: _Fēishā;_ NATO định danh **Flanker-X2**), là một loại máy bay tiêm kích đa năng thế hệ thứ tư hoạt động trên tàu sân
**Shenyang J-5** (, Thẩm Dương Tiêm-5), MiG-17 được Liên Xô cấp phép chế tạo tại Trung Quốc, Ba Lan và Đông Đức vào thập niên 1960, Không quân Quân giải phóng Nhân dân (PLAAF) bắt
**Shenyang J-16** (tiếng Trung: 歼-16) là một máy bay chiến đấu đa năng thế hệ thứ tư tiên tiến của Trung Quốc được phát triển từ Shenyang J-11 (có nguồn gốc từ Sukhoi Su-27), nhà
**Shenyang J-8** (**Jian-8**; tên ký hiệu của NATO **Finback**) là một loại máy bay tiêm kích đánh chặn một chỗ do Trung Quốc chế tạo, có hình dáng bên ngoài gần giống với loại Sukhoi
**Thành Đô Tiêm-7** (tiếng Trung: 歼-7; phiên bản xuất khẩu có tên là **F-7**; tên ký hiệu NATO: **Fishcan**) là một loại máy bay tiêm kích được Trung Quốc sản xuất theo giấy phép của
**NAMC J-12** (, Tiêm-12) là một loại máy bay tiêm kích siêu âm hạng nhẹ do Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chế tạo để trang bị cho Không quân Quân giải phóng Nhân dân
**Chengdu J-9** (tiếng Trung: 歼-9) là một loại máy bay tiêm kích đánh chặn đã bị hủy bỏ trong quá trình phát triển tại Trung Quốc. Nó được đề xuất vào năm 1964 bởi Viện
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## N ### Naglo * Naglo D.II ### Nakajima Aircraft Company * Nakajima A1N * Nakajima A2N * Nakajima A4N * Nakajima A6M2-N
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay chiến đấu, với tên gọi của Liên Xô, Nga, Trung Quốc, thứ tự theo bản báo cáo của NATO: * "Faceplate" MiG Ye-2A * "Fagot" Mikoyan-Gurevich MiG-15
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
**Nam Xương Q-5**, trong tiếng Anh là **Nanchang Q-5** (mã hiệu phồn thể: 強-5, bính âm: Qiang-5, ký hiệu NATO: **Fantan**), hay còn được biết với tên A-5 của phiên bản xuất khẩu, là một
**Quân chủng Phòng không Không quân Quân đội Nhân dân Triều Tiên** (Chosŏn'gŭl: 조선인민군 항공 및 반항공군; Hanja: 朝鮮人民軍 航空 및 反航空軍; _Chosŏn inmin'gun hangkong mit banhangkonggun_) là nhánh quân chủng phòng không-không quân của
**Ilyushin Il-28** là một máy bay ném bom phản lực ban đầu được chế tạo cho Không quân Xô viết và là chiếc đầu tiên kiểu như vậy đi tới giai đoạn sản xuất hàng
**Lực lượng Không quân Tiêm kích** là một Binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ và chức năng sử dụng các loại máy bay tiêm
Chiếc **Lockheed F-104 Starfighter** là một kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn siêu thanh một động cơ có tính năng bay khá cao, đã phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ từ năm 1958
**Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran** là một bộ phận của Các lực lượng Vũ trang Iran. Hiện nay, trong trang bị của không quân Iran có khoảng 220-240 máy bay chiến đấu, trong
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai** tồn tại trong giai đoạn giữa thập niên 1950 tới nửa đầu thập niên 1960. nhỏ|phải|Máy bay tiêm kích đánh chặn [[Mikoyan-Gurevich MiG-21|MiG-21F]] [[English Electric
**Danh sách máy bay quân sự** là danh sách liệt kê tất cả các loại máy bay quân sự hiện đại thường gặp của các nước được sử dụng gần đây để so sánh và
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ năm** là một phân loại thế hệ máy bay tiêm kích phản lực trang bị phần lớn các công nghệ được phát triển trong giai đoạn
Máy bay được phân loại là **máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư** là những chiếc được đưa vào sử dụng trong khoảng thời gian từ 1980-2010, thể hiện những khái niệm
**Sukhoi Su-27** (; tên ký hiệu của NATO: **Flanker**) là một máy bay tiêm kích phản lực độc đáo của Liên Xô được thiết kế bởi Phòng thiết kế Sukhoi (SDB) và được sản xuất
**Sukhoi Su-30MKK** ( , tên ký hiệu của NATO: **Flanker-G**) là một mẫu máy bay được sửa đổi từ loại Su-27 vào năm 1999 bởi KnAAPO, JSC. Nó được coi là một phiên bản nâng
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich
**Giao tranh Trung Quốc–Ấn Độ năm 2020** là một phần của các cuộc đụng độ quân sự đang diễn ra giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2020, quân
**Xian JH-7** (_Jian Hong_-7/Jian - máy bay tiêm kích, hong - máy bay ném bom); Tên ký hiệu của NATO **Flounder**), cũng còn được biết đến với tên gọi **FBC-1 (Fighter/Bomber China-1) Flying Leopard**, là
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Không quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée de l'Air Khmère_ – AAK; tiếng Anh: _Khmer National Air Force_ - KNAF hoặc KAF) là quân chủng không quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và
**Tổng công ty xuất nhập khẩu hàng không quốc gia Trung Quốc** (China National Aero-Technology Import&Export Corporation – CATIC) là một công ty quốc phòng của chính phủ Trung Quốc hoạt động chính trong lĩnh
**Xi'an Y-20 Kunpeng** () là một loại máy bay vận tải quân sự cỡ lớn do Tập đoàn Công nghiệp Máy bay Tây An (Xi'an Aircraft Industrial Corporation) phát triển cho Không quân Quân Giải
**Quân đội Pakistan** (tiếng Urdu: **پاک عسکریہ**) là lực lượng quốc phòng, bảo vệ đất nước của Pakistan. Quân đội Pakistan gồm: Lục quân Pakistan, Hải quân Pakistan, Không quân Pakistan, Lực lượng bán vũ
**Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (tiếng Anh: _People's Liberation Army Air Force_) (), hay **Không quân Trung Quốc** (**PLAAF**), là nhánh quân chủng không quân của Quân Giải phóng Nhân dân