✨Tào Khê tông
nhỏ|Biểu tượng (logo) của Thiền phái Tào Khê, ba chấm tròn tượng trưng cho [[Tam Bảo.]] Tào Khê tông (zh. 曹溪宗 caóxī zōng, ko. chogye chong, ja. sōkei-shū, en. Jogye Order), tên chính thức là Đại Hàn Phật Giáo Tào Khê Tông (zh. 大韓佛敎 曹溪宗, ko. 대한불교조계종), là tông phái Thiền quan trọng nhất của Phật giáo Hàn Quốc, do Quốc sư Phổ Chiếu Trí Nột sáng lập vào đầu thế kỷ 13 dựa trên sự hợp nhất 9 phái Thiền (zh. 禪門九山, Cửu Sơn Thiền Môn) đã có từ trước ở bán đảo Triều Tiên với tông chỉ là "Thiền-giáo song tu", "Đốn ngộ tiệm tu". Vị Thiền sư đời sau Trí Nột là Thái Cổ Phổ Ngu đã hoàn thiện việc hợp nhất và thành lập tông phái này.
Theo thống kê năm 2015, Tào Khê tông là tông phái Phật giáo lớn nhất tại Hàn Quốc với 1.900 ngôi chùa đang hoạt động, hơn 13.000 tăng ni và khoảng 7 triệu tín đồ khắp Hàn Quốc. Vị tông trưởng (lãnh đạo tinh thần tối cao) hiện nay của Thiền phái này là Hòa thượng Seongpa (sinh năm 1939), được bổ nhiệm vào năm 2021, nhiệm kỳ là 5 năm. Chủ tịch tông Tào Khê hiện tại là Hòa thượng Jinwoo (sinh năm 1961), được bổ nhiệm vào tháng 9 năm 2022.
Lịch sử
Trước khi Tào Khê tông ra đời, tại bán đảo Triều Tiên đã tồn tại 9 trường phái Thiền (Cửu Sơn Thiền Môn) do các vị tăng người Triều Tiên sang Trung Quốc tham học và đem về truyền bá vào đầu giữa triều đại Cao Ly - một vương triều rất ủng hộ Phật giáo. 9 trường phái Thiền này là:
Tuy nhiên, giáo đoàn riêng của Thiền tông lúc này vẫn chưa được thành lập.
Dưới triều đại Joseon (1392-1910), Tân Nho giáo rất phát triển do triều đình này rất ủng hộ Tân Nho giáo và còn tôn Tân Nho giáo làm quốc giáo. Phía Phật giáo khá ảm đạm do bị triều đình đưa ra nhiều chính sách cấm đoán như tăng ni không được bén mảng đến thành thị, tất cả các chùa đều phải dời lên núi... Đến đời của Vua Sejong, tất cả các tông phái Phật giáo Triều Tiên bị hợp thành hai phái là Thiền tông (gộp từ Tào Khê tông, Thiên Thai tông, Từ Nam tông) và Giáo tông (gộp từ Hoa Nghiêm tông, Từ Ân tông, Trung Thần tông, Thủy Hưng tông, Nam Sơn tông) để triều đình dễ dàng quản lý Phật giáo. Tuy nhiên, đến đời của Vua Yonsangun thì hai phái trên tạm thời bị bãi bỏ khiến cho Phật giáo Triều Tiên rơi vào hỗn loạn. nhỏ|217x217px|Đại sư Tây Sơn, người lãnh đạo tăng sĩ chống quân Nhật. Mặc dù bị cấm đoán, trong thời gian diễn ra Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598), Phật giáo vẫn đứng về phía triều đình chống quân Nhật. Điển hình nhất là hoạt động của vị tổ Tào Khê tông là Thiền sư Thanh Hư Đường Tập (cũng được gọi là Đại sư Tây Sơn) và đệ tử là Đại sư Tứ Minh (ko. Samyeong, Yujeong). Mặc dù đã 72 tuổi nhưng Đại sư Tây Sơn vẫn lãnh đạo một đội quân "tu sĩ Phật giáo" hợp sức cùng với quân Minh thành công tái chiếm Bình Nhưỡng từ tay Nhật Bản. Vì tuổi già sức yếu, Đại sư Tây Sơn giao lại cho đệ tử là Đại sư Tứ Minh tiếp tục lãnh đạo các vị tăng chiến đấu chống quân Nhật. Chính Tứ Minh chính là người được Vua Seonjo giao trọng trách sang Nhật đàm phán hoà bình với Tokugawa Leyasu. Những điều trên đã góp phần cải thiện quan hệ giữa triều đình và Phật giáo, tuy nhiên phải đến năm 1895 thì tăng ni mới được cho phép vào thành thị. nhỏ|218x218px|Thiền sư Cảnh Hư, vị tổ khôi phục tông Tào Khê. Đến cuối thế kỷ 19, tông Tào Khê được trùng hưng thông qua sự hoằng hóa Thiền sư Cảnh Hư Tinh Ngưu. Ông kế thừa tinh thần "Định - huệ song tu" của Quốc sư Trí Nột và tích cực truyền bá "Thiền thoại đầu" – vốn là phương pháp tu chính yếu của Thiền tông Đại Hàn. Tại Hải Ấn tự (ko. Haeinsa), ông thành lập đạo tràng Thiền Xã vận động (1889) để quảng bá tinh thần tu tập Thiền học đến quần chúng Phật giáo. Ông có 5 đệ tử nối pháp nổi danh là: Huệ Nguyệt Huệ Minh (1861-1937), Mãn Không Nguyệt Diện (1871-1946), Thủy Nguyệt Âm Quán (1855-1928), Long Thành Thần Chung (1864-1940) và Hán Nham Trùng Viễn (1876-1951). Hầu như tất cả các dòng truyền Tào Khê hiện nay tại Hàn Quốc đều thuộc pháp hệ của các vị này.
Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên (1910-1945), Phật giáo Triều Tiên bị lai tạp với các nghi lễ, hình thức sinh hoạt của Phật giáo Nhật Bản do người Nhật du nhập sang. Thậm chí, nhà cầm quyền Nhật Bản còn thay đổi quy tắc tăng đoàn của các sơn môn, điển hình là việc hợp pháp hóa việc tăng sĩ có thể kết hôn sinh con và điều này đã gây ra sự bức xúc trong giới Phật giáo Triều Tiên.nhỏ|200x200px|Một vị tăng khoác y cà sa đặc trưng của Tào Khê tông đang tụng kinh.Từ năm 1954-1962, các vị trưởng lão độc thân của Thiền phái Tào Khê thực hiện Phong trào Thanh lọc Phật giáo, kêu gọi sự tách biệt giữa các vị tu sĩ độc thân và các vị tu sĩ có gia đình trong tông Tào Khê. Hoạt động này được chính quyền Lý Thừa Vãn ủng hộ. Kết quả, 300 vị tăng độc thân tách riêng ra thành một phái và sử dụng tên cũ là Thiền phái Tào Khê. Phía các vị tu sĩ có gia đình và các vị tu sĩ độc thân còn lại hợp thành Thiền phái Thái Cổ (en. Taego Order, được thành lập năm 1970, tên gọi lấy theo pháp danh của Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu). Về sự giống nhau, cả hai Thiền phái này đều bắt nguồn từ Thiền phái Tào Khê do Quốc sư Trí Nột sáng lập và đều có nguồn gốc truyền thừa từ Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu. Điểm khác biệt là một bên chỉ toàn các vị tu sĩ độc thân và hoàn toàn cấm việc tu sĩ kết hôn, bên còn lại thì chủ yếu là các tu sĩ đã có gia đình và cho phép tu sĩ kết hôn (mặc dù không phải tất cả các vị sư của Thiền phái Thái Cổ đều kết hôn, có một số vị chọn sống độc thân). Về màu y cà sa, các vị tu sĩ của phái Tào Khê sử dụng y cà sa màu nâu còn các vị tu sĩ của phái Thái Cổ sử dụng màu y truyền thống của Phật giáo Đại Hàn truyền thống là màu đỏ, xanh đậm hoặc gần như đen. Hiện nay, Thiền phái Thái Cổ là tông phái Phật giáo lớn thứ 2 Hàn Quốc, sau Thiền phái Tào Khê. Vào ngày 11 tháng 4 năm 1962, Tổ chức Đại Hàn Phật Giáo Tào Khê Tông (bắt nguồn từ 300 vị tu sĩ độc thân nói trên) chính thức được thành lập tại Hàn Quốc với 3 mục tiêu chính: Đào tạo và Giáo dục (Training and Education), Phiên dịch kinh điển từ Hán văn sang tiếng Hàn (Translation of sutras from traditional Chinese into modern Korean) và Hoằng pháp (Dharma propagation). Các mục tiêu kể trên là kim chỉ nam hoạt động của Thiền phái Tào Khê cho đến ngày nay. Vị tông trưởng đầu tiên là Thiền sư Hiểu Phong Học Nột (ko. Hyobong Hangnul, 1888-1966).
Ảnh hưởng
nhỏ|Thiền sư Sùng Sơn, người sáng lập trường phái Thiền Quán Âm (Kwan Um School of Zen) nổi tiếng ở phương Tây. nhỏ|Trung Tâm Thiền Providence. Người đầu tiên truyền bá Thiền phái Tào Khê sang nước ngoài là Thiền sư Sùng Sơn Hạnh Nguyện (Seungsahn, 1927-2004). Trước khi qua Mỹ, Thiền sư Sùng Sơn đã có nhiều năm truyền bá Thiền tông tại Hàn Quốc. Ngoài ra, ông còn vân du sang Nhật Bản và Hồng Kông để dạy Thiền và lập ra một số đạo tràng Thiền tông tại những nơi này. Năm 1972, ông đặt chân đến Mỹ, lúc đầu chưa có nhiều người biết đến ông. Ông có làm một số công việc chân tay như giặt giũ và sửa chữa máy móc cho một tiệm giặt gốc Châu Á để mưu sinh. Bên cạnh đó ông cũng dành thời gian học tiếng Anh để dễ truyền đạo. Dần dần có nhiều người biết ông là Thiền sư và theo ông học Thiền, các đệ tử đầu tiên của ông là một số sinh viên đang theo học tại Đại học Brown. Sau này khi đã đủ điều kiện, ông sáng lập Trung tâm Thiền Providence (Providence Zen Center) tại thành phố Providence thuộc tiểu bang Rhode Island để làm nơi tu tập, sinh hoạt cho các đệ tử. Dòng Thiền của ông được biết đến tại phương Tây với tên gọi chính thức là Kwan Um school of Zen (Thiền Quán Âm, được thành lập năm 1983), là một chi phái của tông Tào Khê. Phương pháp truyền đạo của Thiền sư Sùng Sơn tại phương Tây có phần dễ thở hơn so với các vị Thiền sư khác tại Hàn Quốc như cho phép cư sĩ mặc áo cà sa và không đặt nặng về vấn đề sống độc thân... Về đường lối tu tập, tương tự như truyền thống Thiền Đại Hàn, các Thiền sinh được dạy tham cứu công án để đạt được giác ngộ. Ngoài ra họ cũng được dạy niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và nghiên cứu tư tưởng Kinh Hoa Nghiêm. Tính đến thời điểm Thiền sư Sùng Sơn viên tịch (2004), ông đã sáng lập được gần 40 trung tâm Thiền trên khắp thế giới. Hiện nay, dòng Thiền này có gần 100 đạo tràng và tổ chức tu Thiền ở khắp thế giới (đa dạng ở nhiều khu vực như Châu Mỹ-Latinh, Châu Á, Úc, Châu Âu, Israel). Theo James Ishmael Ford, trường phái Thiền Quán Âm (Kwan Um School of Zen) là trường phái Phật giáo lớn nhất tại phương Tây.
Bên cạnh Sùng Sơn, một nhân vật khác có vai trò quan trọng trong việc truyền bá Thiền phái Tào Khê ra thế giới là Thiền sư Cửu Sơn Tú Liên (ko. Kusan Sunim). Năm 1969, Thiền sư Cửu Sơn trở thành trụ trì của tổ đình Quảng Tùng tự (ko. Songgwangsa) và ông đã mở một chương trình dạy Thiền căn bản tại đây. Ngoài các vị tăng người Hàn Quốc, nhiều tu sĩ từ Mỹ, Châu Âu và các châu lục khác cũng đến tham dự khoá Thiền này và họ đã hành Thiền rất miên mật. Năm 1973, Thiền sư Cửu Sơn sang Mỹ dự lễ khánh thành chùa Sambosa (ngôi chùa gốc Hàn Quốc) tại Carmel, California. Không lâu sau, ông trở về Hàn Quốc và cùng đi với ông có các môn đệ người nước ngoài mà ông đã thu nhận được trong thời gian lưu trú ở Mỹ. Thiền sư Cửu Sơn cùng với các đệ tử này đã sáng lập Trung Tâm Thiền Quốc Tế Bulil (Bulil Internation Seon Center) tại Hàn Quốc để dạy Thiền cho những người nước ngoài đến Hàn Quốc. Ngoài ra ông cũng sáng lập một số đạo tràng ở nước ngoài để truyền bá Thiền tông như chùa Goryesa ở Los Angeles, Mỹ vào năm 1980, chùa Bulseungsa ở Geneva, Thụy Điển và chùa Daegaksa gần Carmel, Mỹ vào năm 1982.
Hoạt động giáo dục và tu học
Xuất gia và thọ giới
Trong tông Tào Khê, trước khi xuất gia, người ta cần phải đi tìm một vị thầy phù hợp với mình. Sau khi đã tìm được vị thầy ưng ý, người này sẽ cạo tóc với vị thầy và tập sự ở chùa trong khoảng 5 tháng để kiểm tra xem có thực sự có ý chí tu tập hay không. Nếu đáp ứng được, người này sẽ được tham gia lễ thọ giới và trở thành một vị Sa-di/Sa-di ni. Theo thường lệ, vị Sa-di sẽ học các giáo lý Phật giáo cơ bản tại chùa hoặc Viện Phật học trong 4 năm và tham gia kỳ thi để kiểm tra các kiến thức đã học được. Nếu vượt qua được kỳ thi, vị này sẽ được thọ đại giới và trở thành Tỳ-khưu (bhikkhu) hoặc Tỳ-khưu ni (bhikkuni). Sau khi thọ đại giới, người Tỳ-khưu/ Tỳ-khưu ni chính thức được tham dự vào các hoạt động sinh hoạt Thiền môn như tụng niệm, hành thiền, nghiên cứu kinh sách. Một số cũng có thể đóng góp vào công tác quản lý hành chính của chùa hoặc thuyết pháp, hướng dẫn phật tử tu tập. nhỏ|Lễ Phật. Mô hình này được thực hiện khá thành công và ngày càng thu hút nhiều du khách đến trải nghiệm. Nó được chính phủ Hàn Quốc đánh giá là một trong những loại hình du lịch trọng điểm. Theo thống kê, 20% trong số 100.000 du khách nước ngoài đến Hàn Quốc vào năm 2008 đã chọn tham gia chương trình Temple Stay.
Trong lĩnh vực an sinh xã hội
Từ tháng 9 năm 2013, tổ chức gây quỹ của tông Tào Khê mang tên Dreaminus đã tài trợ và thực hiện dự án xây dựng Trường Đại học Kỹ thuật Nông Nghiệp Borigaram tại Tanzania, Châu Phi. Đến ngày 5 tháng 9 năm 2016, trường được khánh thành và chính thức đi vào hoạt động. Mục tiêu của đại học này là đào tạo, giúp các thế hệ trẻ tại đây có cơ hội học tập, tìm hiểu về các quy trình, kỹ thuật liên quan đến nông nghiệp như trồng trọt, nhân giống, chăn nuôi.... Thông qua đó, họ có thể cải thiện được tình trạng đói nghèo, thiếu thốn về lương thực và trở thành những thế hệ lãnh đạo đầu tiên tại Tanzania trong lĩnh vực nông nghiệp. Tất cả các học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên ở khu vực lân cận trường và các vùng khác tại Tanzania đều được chào đón khi đến học tại trường này.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế
Các chùa chính
Các ngôi Thiền viện và tự viện của Thiền phái Tào Khê đều trực thuộc quản lý của 1 trong 24 chùa chính (theo cấp độ quận). Danh sách 24 ngôi chùa chính: