nhỏ|Tây Sơn Đại Sư
Thanh Hư Đường Tập (ko: 휴정휴정 Cheongheo Hyujeong, zh. 淸虛堂集, 1520-1604), còn có hiệu là Tây Sơn Đại Sư (ko. Seosan Daesa), là Thiền sư danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, thuộc Thiền phái Tào Khê. Cuộc đời sư nổi bật qua công cuộc truyền bá tư tưởng, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền Tông.
Ngoài ra, sư cũng nổi danh và được các thế hệ người Hàn Quốc ghi nhớ công ơn qua hoạt động kêu gọi tăng sĩ đứng lên kháng chiến chống quân Nhật Bản vào cuối thế kỷ 16. Bộ môn Taekwon-Do Seo-San được đặt tên sư để vinh danh.
Tiểu sử
Sư sinh năm 1520 tại Anju, tỉnh Pyeongan-do. Tên lúc nhỏ của sư là Unhak, cha mẹ qua đời khi sư còn nhỏ. Sau đó, sư đi theo một người bạn của cha đến Seoul và bắt đầu sự nghiệp học tập tại Thành Quân Quán(Sungkyunkwan)- học viện giáo dục cao nhất dưới triều đại Joseon.
Vào năm 14 tuổi, sư trở nên xuất chúng với trí thông minh của mình, nhưng sư vẫn cảm thấy thất vọng vì rất khó để có thể dành được một vị trí quan lại trong bộ máy triều đình khi bị trượt kỳ thi chính thức và sự thiếu hụt về nền tảng gia đình vững chắc. Với những cảm giác thất vọng về thực tại của mình, sư cùng một số người bạn quyết định du hành đến những nơi mà họ có thể tìm thấy các vị đại sư Phật giáo với trí huệ sâu sắc nhất.
Tại ngọn núi Jirisan, sư gặp đại sư Sungin trong một am nhỏ gần Tân Hưng Tự(kr: Sinheungsa), người đã có tác động rất lớn đến quyết định sau này của sư. Tại đây, đại sư Sungin đề nghị sư thực hành Phật Pháp và sư đã đặt câu hỏi: "Làm thế nào để tâm phát sinh? Tâm người giác ngộ như thế nào?". Vị đại sư trả lời: "Tâm không phải là một vật và không thể diễn tả nó qua lời nói. Không ngoại hình, màu sắc, kích thước, trọng lượng, tâm thuộc về một thế giới mà không thể biết được thông qua hiểu biết. Do đó, để có thể ngộ được tâm, tự mỗi người phải tu tập và chứng nghiệm nó". Sau đó ngài cũng nói thêm rằng: " Nếu con đọc kỹ và quán chiếu Kinh văn sâu sắc, từng chút một. Con có thể đi vào cánh cửa của tâm".
Vì trước kia đã quen với việc nghiên cứu và đọc các sách Nho Giáo, sư nhanh chóng quen với việc học tập Tam Tạng Kinh Điển, kinh văn Phật giáo và ngộ ra sự vô thường nhân sinh và điều thiết yếu của việc tu tập. Trong khi những người bạn đã quay trở lại Seoul, sư quyết định ở lại đây tu tập và nhận đại sư Sungin làm thầy và tiếp tục nghiên cứu các giáo lý. Sau đó, sư đến tham Thiền với Thiền sư Phù Dung Linh Quán(kr: 부용영관, Bu-Yong Yeong-Gwan,zh: 芙蓉靈觀, 1485–1567/1571)- vị Thiền sư ngộ đạo nhờ chuyên tâm thực hành Tham thoại đầu và từ bỏ việc học tập Kinh điển, giáo lý. Dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Phù Dung, sư chuyên tâm tham Thiền trong nhiều năm và có sự phát sinh trí huệ, nhưng vẫn chưa đại ngộ, và vì thế sư càng quyết tâm tu tập hơn. Một đêm nọ, khi đang tọa Thiền, sư nghe tiếng chim cu hót và đại ngộ. Bài kệ ngộ đạo của sư:
Thập niên đoan tọa ủng tâm thành
Quán đắc thâm lâm điểu bất kinh
Tạc dạ tùng đàm phong vũ ác
Ngư sanh nhứt giác, hạc tam thanh.
Dịch:
Ngồi thẳng mười năm dạ chí thành
Rừng sâu chim thú rất thân tình
Đêm qua mưa gió đầm tùng lớn
Ba tiếng hạc kêu, cá mọc sừng.
Sau đó, sư được Thiền sư Phù Dung ấn khả chứng minh và truyền pháp kế vị truyền thừa Thiền phái Tào Khê đời thứ 63 tính từ sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, đời thứ 36 tính từ tổ Bồ Đề Đạt Ma và đời thứ 7 tính từ Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu.
Vào năm 32 tuổi, sư bắt đầu giảng dạy và truyền bá Phật Pháp và đứng đầu trong việc kiểm tra các hoạt động tu tập tại các tu viện. Và sau đó trở thành vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Triều Tiên lúc bấy giờ, cả về truyền thống thực hành Thiền Tông (Thiền) và nghiên cứu Kinh Điển(Giáo). Tuy nhiên, sau đó sư từ chức và trở về ngọn núi Kim Cương Sơn(kr: Geumgangsan) và tiếp tục thực hành Thiền định và thu nhận, hướng dẫn tu tập cho các vị Thiền sinh trẻ tuổi cũng như sáng tác các tác phẩm Thiền học.
Chiến đấu
Năm 1592, sau khi Toyotomi Hideyoshi cai trị và ổn định Nhật Bản trong thời kỳ Sengoku xong, ông ta đã chuẩn bị cho một cuộc xâm lược quy mô lớn vào Triều Tiên dưới triều đại. Joseon. Năm 1592, sau khi yêu cầu của Nhật Bản về viện trợ để Nhật Bản chinh phục nhà Nguyên Trung Quốc bị Joseon từ chối, khoảng 200.000 binh lính Nhật Bản đã tiến vào xâm lược Triều Tiên. Lúc này, Tây Sơn đại sư 72 tuổi đang ẩn cư trên núi Myohyangsan.
Mặc dù dưới triều đại Joseon, Phật giáo Triều Tiên phải đối mặt với sự khinh miệt và bài trừ do chính sách đàn áp Phật Giáo và tôn sùng Nho Giáo do tướng Yi Seonggye ban hành nhằm thu hút sự ủng hộ chính trị của các Nho sĩ để củng cố quyền lực và chống lại các đối thủ chính trị gia Phật giáo khi ông lật đổ Cung Nhượng Vương của triều Cao Ly và lên ngôi Triều Tiên Thái Tổ. Tuy nhiên, Đại sư Tây Sơn vẫn nghĩ về lợi ích quốc gia và nói với các môn đệ rằng mặc dù quốc gia đã từ bỏ Phật Giáo, nhưng Phật giáo không bao giờ từ bỏ quốc gia, vì quốc gia là nơi mà vô số chúng sinh cần được cứu độ thông qua lòng đại từ bi. Ngay cả khi ở độ tuổi 73, sư vẫn đứng lên kêu gọi và chiêu mộ hơn 5000 tăng sĩ yêu nước và chỉ huy, lãnh đạo họ chiến đấu chống quân xâm lược và ghóp phần quan trọng vào những chiến thắng quân sự và cuối cùng đánh bại quân Nhật vào năm 1598.
Thị tịch
Sau khi lãnh đạo các tăng sĩ chiến đấu chống lại quân xâm lược Nhật Bản thành công, sư đã trao lại nhiệm vụ lãnh đạo này lại cho các đệ tử của mình và quay trở lại núi và chuyên tâm tu hành.
Vào tháng 1 năm 1604, với tuyết phủ xung quanh am Wonjeogam, sư thuyết pháp lần cuối cho các môn đệ về công án "Tâm" mà mình đã trọn đời tu tập. Và trao bức chân dung của mình cho các môn đệ và viết những lời cuối cùng: "80 năm trước, thứ đó chính là tôi. 80 năm sau, và bây giờ tôi không còn là thứ đó". Rồi ngồi kiết già trong tư thế hoa sen và nhập Niết-bàn. Hưởng thọ 84 tuổi, hạ lạp 67 năm. Sư để lại nhiều tác phẩm Thiền học quý báu, trong đó tác phẩm Thiền Gia Quy Giám đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có bản tiếng Việt.
Sư đã đào tạo hơn 1000 môn đệ và trong số đó có hơn 70 nhân vật xuất chúng. Trong số những vị này, 4 môn đệ xuất sắc nhất là: Samyeong Yujeong (1544 -1610), Pyeonyang Eongi (1581 -1644), Soyo Taeneung (1562 -1649), và Jeonggwan Ilseon (1533 -1608).
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Tây Sơn Đại Sư **Thanh Hư Đường Tập** (ko: 휴정휴정 _Cheongheo Hyujeong_, zh. 淸虛堂集, 1520-1604), còn có hiệu là **Tây Sơn Đại Sư** (ko. _Seosan Daesa_), là Thiền sư danh tiếng nhất Triều Tiên vào
**Tây Sơn** là một huyện nằm ở tỉnh Gia Lai, Việt Nam. Đây là một vùng địa lý quan trọng ở khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng ven
**Thành Hải Dương**, còn gọi là **Thành Đông**, là một ngôi thành cổ thời nhà Nguyễn. Ngôi thành được đắp bằng đất năm 1804, dùng làm nơi làm việc cho bộ máy trấn thành Hải
**Vụ đột kích Sơn Tây**, mật danh của quân đội Mỹ là **_chiến dịch Bờ Biển Ngà_** (tiếng Anh: _Operation Ivory Coast_), là cuộc tập kích của quân đội Mỹ bằng máy bay trực thăng
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Hám Sơn** **Đức Thanh** ( zh. 憨山德清 _Hanshan Deqing,_ 1546-1623) là một vị Thiền sư, Đại sư của Thiền Tông và Tịnh Độ tông Trung Quốc. Sư được mệnh danh là một trong 4 vị
nhỏ|Toàn cảnh thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao (không ảnh) năm 2022.|303x303px nhỏ|Thành Sơn Tây, tháng 4 năm 1884, một trong 4 thành trong [[Thăng Long tứ trấn|303x303px]] nhỏ|Bản vẽ thành Sơn Tây
nhỏ|Thiền Sư Dược Sơn **Dược Sơn Duy Nghiễm** (zh. _yàoshān wéiyǎn_ 藥山惟儼, ja. _yakusan igen_), 745-828 hoặc 750-834, là Thiền sư Trung Quốc đời Đường, môn đệ xuất sắc của thiền sư Thạch Đầu Hi
**Hư Vân** (zh. 虛雲; _Xūyún_; 17 tháng 8 năm 1840?−13 tháng 10 năm 1959), còn có hiệu là **Đức Thanh Diễn Triệt**, là một Thiền sư Trung Quốc thời cận đại. Sư là vị Thiền
**Cảnh Hư** (ko. 경허, _Gyeongheo/ Kyongho**/** Kyongho_, zh. 鏡虛, ngày 24 tháng 8 năm 1849 – ngày 25 tháng 4 năm 1912), hiệu là **Tinh Ngưu** (zh. 惺牛, ko. _Seongu_), là vị Thiền sư danh
**Quy Sơn Linh Hựu** (; tiếng Nhật: _Isan Reiyū_; 771-853) là một vị Thiền sư Trung Quốc trứ danh, môn đệ của Bách Trượng Hoài Hải và thầy của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Cùng với
**Sư Thiện Chiếu** (1898-1974), hay **Thích Thiện Chiếu**, là một tu sĩ Phật giáo, và cũng là một chí sĩ chống Pháp, thành viên Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, đảng viên Đảng Cộng
**Châu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp**, **Thập Song Bản Nạp**, **Thập Song Bàn Na** hay **Sipsong Panna** (; Tiếng Lự: ; Tiếng Thái: ,) là châu tự trị dân tộc Thái
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**_Thủy hử_** hay **_Thủy hử truyện_** (水滸傳, nghĩa đen là "bến nước"), tên gốc là **_Trung nghĩa truyện_** (忠義傳) hay **_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Mỹ Tho** (美湫) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Tiền Giang cũ, Việt Nam. Thành phố Mỹ Tho hiện là đô thị loại I, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Đây
**Sự kiện Tết Mậu Thân** (sách báo Việt Nam thường gọi là **_Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968_**) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
Phim _Tây du ký_ có lực lượng diễn viên đông đảo, với sự góp mặt của đội ngũ diễn viên có tên tuổi lúc bấy giờ và một số diễn viên không chuyên. Tuy nhiên,
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Đường Trường Sơn** hay **đường mòn Hồ Chí Minh** () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Đại Thiện** (; ; 19 tháng 8 năm 1583 – 25 tháng 11 năm 1648) là một hoàng thân Mãn Châu và chính trị gia có ảnh hưởng của nhà Thanh trong thời gian khai
**Vụ hạ giàn khoan _Hải Dương-981**_ (HD-981) là sự kiện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) vào khu vực Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày
**Huệ Viễn** hay Tuệ Viễn (zh. 慧遠), 334~416, là một Cao tăng Trung Quốc đời nhà Tấn (zh. 晋). Sư họ Cổ (zh. 賈) nguyên quán xứ Lâu Phiền (zh. 樓煩) ở Nhạn Môn (zh.
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Trịnh Công Sơn** (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nam nhạc sĩ người Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của tân
**Chùa Côn Sơn** (tên chữ là **Thiên** **Tư Phúc tự** hay **Côn Sơn Tự**), còn gọi là **chùa Hun**, là một ngôi chùa nằm bên ngọn núi Côn Sơn (hay còn gọi là núi Hun)
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Nam Định** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Đây là một trong những thành phố được Pháp lập ra đầu tiên ở Liên bang Đông Dương. Nằm ở phía
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2020** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2020, chủ
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
nhỏ|phải|294x294px|Múa lân nhân ngày kỷ niệm danh nhân [[Trần Văn Thành tại dinh Sơn Trung (An Giang, Việt Nam)]] **Múa lân - sư - rồng** (; Hán Việt: vũ sư) là một môn nghệ thuật