✨Thời kỳ Chiến Quốc (Nhật Bản)

Thời kỳ Chiến Quốc (Nhật Bản)

Thời kỳ Chiến quốc là thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản với nhiều chuyển biến xã hội lồng trong bối cảnh mưu mô chính trị và xung đột quân sự gần như là liên tục bắt đầu từ năm 1467 cho đến tận năm 1615.

Thời kỳ Chiến Quốc được mở đầu với Loạn Ōnin năm 1467, khiến thể chế phong kiến tại Nhật Bản dưới chế độ Mạc phủ Ashikaga sụp đổ. Nhiều lãnh chúa và các gia tộc samurai nhân khoảng trống quyền lực đó đã ra tay gây chiến để chiếm cứ thêm lãnh thổ trong giai đoạn này. Vì trung ương bị suy yếu, thời đại chiến quốc cũng là khi phong trào Ikkō-ikki nổi dậy chống lại thể chế samurai. Đồng thời sự xuất hiện của người Châu Âu vào năm 1543 cho ra mắt kỹ thuật vũ khí mới: súng hỏa mai. Hỏa pháo này nhanh chóng được sử dụng trong chiến trận, làm thay đổi cục bộ thế lực tham chiến.

Nhật Bản kể từ năm 1549 trở đi cũng dần xa lìa quỹ đạo chính trị của Trung Hoa. Năm 1573 Oda Nobunaga xuống lệnh giải tán Mạc phủ Ashikaga và phát động cuộc chiến thống nhất quyền bính. Nobunaga tiến đánh Ishiyama Hongan-ji nhưng rồi bị ám sát vào năm 1582. Người kế vị Nobunaga là Toyotomi Hideyoshi tiếp tục công cuộc thống nhất Nhật Bản, thâu tóm quyền lực và dẹp phá cát cứ địa phương của giới quý tộc. Hideyoshi sau đó lại mở cuộc xâm lăng Triều Tiên năm 1592, nhưng chiến cuộc dai dẳng và cuối cùng đi đến thất bại. Hideyoshi mất uy tín và mất năm 1598. Nhật Bản bước qua trang sử mới: Tokugawa Ieyasu lên nắm quyền bính, truất ấu chúa là con của Hideyoshi. Trận Sekigahara năm 1600 là thời điểm quyết liệt. Ieyasu thắng lớn và tái lập chế độ mạc phủ dưới sự cai trị của dòng họ Tokugawa. Thời đại Chiến quốc kết thúc năm 1615 khi thành Osaka thất thủ; phe của Toyotomi bại trận và Ieyasu chiếm đoạt địa vị quyền lực nhất nước Nhật, lập ra trật tự mới.

Thời đại Chiến quốc của Nhật Bản còn hay được các sử gia gọi dưới cái tên thời đại Sengoku để phân biệt với thời đại Chiến Quốc của Trung Quốc. Người Nhật thời nay coi Nobunaga, Hideyoshi và Ieyasu là "Ba người Thống nhất Vĩ đại" vì đã khôi phục lại hệ thống chính quyền trung ương cho đất nước.

Tên gọi

Cái tên "Thời kỳ chiến quốc" ám chỉ thời kỳ hỗn loạn sau Chiến tranh Ōnin-Bunmei, được các quý tộc triều đình thời đó ví như hỗn loạn thời “Xuân Thu Chiến Quốc” ở Trung Quốc cổ đại.

Trong một tựa đề "Những Shugo liêm trực tại các tỉnh" trên Shōdanchiyō (樵談治要 Tiều đàm trị yếu), được viết bởi Ichijō Kaneyoshi vào năm 1480 (năm Bunmei 12), ông viết, "Kokushi (国司 Quốc ty) một tỉnh chỉ được bổ nhiệm trong bốn năm, và mặc dù chức Shugo (守護 Thủ hộ) lúc bấy giờ cũng giống như Kokushi ngày xưa, nhưng việc Shugo được truyền lại cho con cháu thì không khác gì mười hai chư hầu thời Xuân Thu, hay thất hùng thời Chiến Quốc". Ngoài ra, ngày 16 tháng 4 năm 1508 trong nhật ký của Konoe Hisamichi, "Hậu Hōjōji Shōtsu công kí" (後法成寺尚通公記), viết "đây cũng giống như thời kỳ Chiến quốc". Thuật ngữ "Thời kỳ Chiến quốc" được sử dụng bởi các quý tộc triều đình thời đó trực tiếp gọi Thời kỳ Chiến quốc Trung Quốc cổ đại.

Điều 20 trong "Kōshū hattoshidai" (甲州法度次第 Kōshū Pháp độ thứ đệ) của Takeda Shingen nói rằng, "Trong thời đại thiên hạ chiến quốc, điều cần thiết là chuẩn bị vũ khí trong khi làm nhiều việc khác nhau", cho thấy rằng các samurai thời đó cũng nhận thức được rằng thời đại mà họ đã sống trong thời kỳ "chiến quốc".

Trong "Nihon Gaishi" (日本外史 Nhật Bản ngoại sử), một cuốn sách bán chạy nhất được xuất bản vào thời Edo (1603-1867), các cụm từ "chiến quốc" xuất hiện không thường xuyên chỉ thời kỳ này, cụm từ thường được dân chúng gọi là "thời kỳ Genki Tenshō" (niên hiệu Thiên hoàng Ōgimachi). Mãi cho đến sau Minh Trị Duy tân, thuật ngữ "thời kỳ chiến quốc" như một giai đoạn lịch sử của Nhật Bản mới được dân chúng sử dụng rộng rãi.

Tóm tắt

Trong giai đoạn này, mặc dù Hoàng đế Nhật Bản là người cai trị chính thức của quốc gia và tất cả các lãnh chúa đều thề trung thành với ông, tuy nhiên, thực tế ông lại chỉ giống như một bù nhìn, là một hình tượng về lễ nghi và tôn giáo, là người đã trao bộ toàn bộ quyền lực cho shōgun, một quý tộc có vai trò tương đương với một Tướng quân. Trước khi thời kỳ chiến quốc diễn ra, chính quyền Mạc phủ (Shogun) dần mất đi tầm ảnh hưởng và quyền kiểm soát lên các daimyō (đại danh hay lãnh chúa địa phương). Mặc dù Mạc phủ Ashikaga vẫn áp dụng cấu trúc cai trị như thời Mạc phủ Kamakura và thiết lập một chính phủ quân đội dựa trên các quyền và nghĩa vụ kinh tế xã hội được thiết lập bởi Hōjō với bộ luật Jōei vào năm 1232, chính phủ này vẫn thất bại trong việc giữ được sự trung thành của các đại danh, đặc biệt là tại những vùng cách xa kinh đô Kyoto. Nhiều lãnh chúa bắt đầu gây chiến với nhau một cách khó kiểm soát nhằm giành lấy đất đai và tạo ảnh hưởng lên Mạc phủ. Với sự gia tăng trong giao thương với nhà Minh, kinh tế dần dần phát triển, và việc sử dụng tiền dần trở nên phổ biến khi các chợ và thành phố thương mại xuất hiện. Kết hợp với sự phát triển về nông nghiệp và giao thương nhỏ lẻ, điều này đã dẫn tới tham vọng giành quyền tự chủ lớn hơn tại các địa phương trên mọi giai cấp và tầng lớp xã hội. Cho tới đầu thế kỷ 15, những thảm hoạt do động đất và nạn đói diễn ra liên miên đã châm ngòi cho các cuộc nổi dậy của tầng lớp nông dân nhằm giảm sưu thuế.

Loạn Ōnin (1467–1477), một cuộc xung đột bắt nguồn từ suy thoái kinh tế và nổ ra sau những tranh cãi về người kế vị cho shogun, được đa số coi là điểm khởi đầu của thời kỳ Chiến Quốc. Quân đội "phía đông" của nhà Hosokawa và các đồng minh chiến đấu với quân đội "phía tây" của nhà Yamana. Cuộc chiến diễn ra trong và xung quanh Kyoto kéo dài ròng rã gần 11 năm trời, khiến cho thành phố gần như bị phá hủy hoàn toàn. Cuộc chiến tại Kyoto sau đó đã lan rộng đến cả các tỉnh ở phía xa.

Cuộc chiến lên tới đỉnh điểm với sự tham gia lần lượt của ba lãnh chúa là Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu, người mà sau này đã thống nhất Nhật Bản. Sau khi Tokugawa Ieyasu giành chiến thắng cuối cùng tại cuộc vây hãm Osaka vào năm 1615, Nhật Bản đã bước sang giai đoạn hòa bình trong suốt 200 năm dưới quyền cai trị của Mạc phủ Tokugawa.

"Hạ khắc thượng"

thumb|right|upright=1.5|Nhật Bản năm 1570 Sự chuyển biến dẫn đến sự yếu đi trông thấy của chính quyền trung ương đã tạo cơ hội để các lãnh chúa đại danh trên toàn Nhật Bản vươn lên để lấp đầy khoảng trống quyền lực đó. Trong cuộc chuyển giao quyền lực này, những gia tộc đã chuẩn bị tốt như gia tộc Takeda và gia tộc Imagawa, những người đã trở thành các thế lực cát cứ ngay cả dưới thời Mạc phủ Kamakura và Muromachi, có điều kiện mở rộng khu vực ảnh hưởng của mình. Có nhiều người, tất nhiên, dần mất quyền lực và cuối cùng bị lật đổ bởi kẻ dưới trướng. Hiện tượng những người địa vị thấp kém nhưng tài giỏi từ chối tuân theo đẳng cấp của mình và dùng vũ lực để lật đổ kẻ lãnh đạo bạc nhược được gọi là "Hạ khắc thượng" (下克上, gekokujō).

Ví dụ đầu tiên của hiện tượng này là Hōjō Sōun, người có xuất thân khiêm nhường nhưng đã đoạt lấy quyền lực ở tỉnh Izu năm 1493. Dựa trên thành quả của Sōun, gia tộc Hōjō vẫn giữ được quyền lực lớn ở vùng Kanto cho đến khi bị Toyotomi Hideyoshi chinh phục vào cuối thời kỳ Chiến quốc. Một số trường hợp tiêu biểu khác bao gồm việc gia tộc Hosokawa bị thay thế bởi nhà Miyoshi, Toki bị thay thế bởi Saitō, và gia tộc Shiba bị thay thế bởi nhà Oda, rồi sau đó tất cả cũng bị lật đổ bởi một người thấp kém hơn là Toyotomi Hideyoshi, con trai của một nông dân không có họ.

Những tổ chức tôn giáo có tổ chức tốt cũng đoạt lấy quyền lực chính trị bằng cách tập hợp nông dân khởi nghĩa và quân nổi dậy chống lại luật lệ của các daimyo. Các nhà sư của phái Tịnh độ chân tông tập hợp rất nhiều thành viên của Ikkō-ikki, là tổ chức thành công nhất, làm cho tỉnh Kaga giữ được độc lập gần 100 năm.

Thống nhất

nhỏ|trái|[[Trận Kawanakajima năm 1561]] Sau một thế kỷ rưỡi chiến tranh và bất ổn chính trị, Nhật Bản đã gần như được thống nhất bởi Oda Nobunaga, một lãnh chúa hạng vừa ở tỉnh Owari (ngày nay là tỉnh Aichi) để thống trị miền trung nước Nhật. Tuy nhiên vào năm 1582 chính Nobunaga trở thành nạn nhân của sự phản bội của chính tướng quân của mình, Akechi Mitsuhide. Điều này tạo cơ hội cho Toyotomi Hideyoshi (người xuất thân từ một anh lính "túc khinh" (ashigaru), vốn đã thành tướng quân ưu ái của Nobunaga từ trước do chứng minh được tài năng của mình trên chiến trường) dẫn quân về trừng phạt Akechi và trở thành người kế vị ông. Hideyoshi cuối cùng củng cố quyền thống trị của mình lên các lãnh chúa còn lại, và mặc dù ông không đủ tiêu chuẩn để được phong tước Chinh di Đại tướng quân như những người đứng đầu Mạc phủ khi xưa vì xuất thân thấp kém của mình, ông vẫn thống trị với tư cách một "Nhiếp chính" (Kampaku) cho gia đình của Nobunaga.

Khi Hideyoshi qua đời năm 1598 mà không có một người kế vị có tiềm năng, đất nước lại một lần nữa rơi vào cuộc tranh giành quyền lực, và lần này Tokugawa Ieyasu là người tận dụng được cơ hội.

Hideyoshi trên giường bệnh đã chỉ định một nhóm các lãnh chúa hùng mạnh nhất Nhật Bản — Tokugawa, Maeda, Ukita, Uesugi, Mōri — để thành lập Hội đồng Ngũ Nguyên lão cho đến khi người con trai thơ bé của ông, Hideyori, đến tuổi trưởng thành. Một nền hòa bình giả tạo diễn ra sau cái chết của Maeda Toshiie năm 1599. Ngay sau đó, Ishida Mitsunari buộc tội Ieyasu không trung thành với gia tộc Toyotomi, hấp tấp tạo ra một cuộc khủng hoảng rồi dẫn đến trận Quan Ngã Nguyên (tức Sekigahara) vào năm 1600. Thường được coi là trận chiến lớn cuối cùng của thời Chiến quốc, chiến thắng của Ieyasu ở Quan Ngã Nguyên đã kết thúc sự thống trị của triều đại Toyotomi. Ba năm sau, Ieyasu nhận tước hiệu "Chinh di Đại tướng quân", và thiết lập Mạc phủ cuối cùng ở Nhật Bản (Mạc phủ Tokugawa), cho đến Minh Trị Duy Tân năm 1868.

Những nhân vật nổi tiếng

Nhật Bản cuối thế kỷ 16

Các Daimyo nổi tiếng thời Chiến quốc

  • Oda Nobunaga
  • Toyotomi Hideyoshi
  • Tokugawa Ieyasu Tính cách tương phản của ba vị lãnh đạo đã làm Nhật Bản cuối cùng cũng được thống nhất—Nobunaga, Hideyoshi, và Ieyasu—được gói gọn trong một senryu nổi tiếng:
  • Nakanunara, koroshiteshimae, hototogisu (Nếu con chim cúc cu không hót, giết nó)
  • Nakanunara, nakashitemiseyou, hototogisu (Nếu con chim cúc cu không hót, vuốt ve nó)
  • Nakanunara, nakumadematou, hototogisu (Nếu con chim cúc cu không hót, chờ đợi nó)

Nobunaga, được biết đến với tính cách tàn bạo của mình, là chủ đề của câu thứ nhất; Hideyoshi, nổi tiếng với tài tháo vát, là câu thứ hai; và Ieyasu, nổi tiếng với tính nhẫn nại, là chủ đề của câu thứ ba.

Những lãnh chúa Đại danh nổi tiếng khác bao gồm:

  • Azai Nagamasa
  • Chōsokabe Motochika
  • Date Masamune
  • Hōjō Sōun
  • Imagawa Yoshimoto
  • Maeda Toshiie
  • Mōri Motonari
  • Saitō Dōsan
  • Sanada Masayuki
  • Shimazu Yoshihiro
  • Tachibana Ginchiyo
  • Takeda Shingen
  • Uesugi Kenshin
  • Ukita Hideie

Những cá nhân nổi tiếng khác

  • Akechi Mitsuhide
  • Fūma Kotarō
  • Hattori Hanzō
  • Honda Tadakatsu
  • Ii Naomasa
  • Ishida Mitsunari
  • Maeda Keiji
  • Miyamoto Musashi
  • Mori Ranmaru
  • Naoe Kanetsugu
  • Oda Nobutada
  • Saika Magoichi
  • Sanada Yukimura
  • Sasaki Kojirō
  • Shibata Katsuie
  • Shima Sakon
  • Fukushima Masanori
  • Kato Kiyomasa

Trong văn hóa đương đại

Cũng như cuộc Tây tiến của người Mỹ, thời kỳ Chiến quốc là nguồn cảm hứng của vô số các cuốn sách, bộ phim, anime, và video game.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời kỳ Chiến quốc** là thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản với nhiều chuyển biến xã hội lồng trong bối cảnh mưu mô chính trị và xung đột quân sự gần như là liên
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
nhỏ|phải|Quân đội Đế quốc Nhật Bản năm 1900. Màu đồng phục phải là màu xanh đậm chứ không phải màu xám xanh như trong hình in mờ này. (kanji cổ: 大日本帝國陸軍, kanji mới: 大日本帝国陸軍; romaji:
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
**Chiến tranh thương mại Nhật Bản – Hàn Quốc 2019** (hay **Thương chiến Nhật – Hàn**) là một cuộc chiến tranh thương mại và các lệnh trả đũa kinh tế lẫn nhau dẫn đến một
thumb|right|upright=1.6|alt=Một lâu đài màu trắng với một tháp lớn cao năm tầng và hai tháp nhỏ hơn, tất cả được xây dựng trên một nền đá.|[[Thành Himeji là tòa thành được viếng thăm nhiều nhất
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
phải|nhỏ|250x250px|Đại bản doanh Đế quốc Nhật Bản ra thông cáo, tháng 1 năm 1942. phải|nhỏ|250x250px|Nhật hoàng [[Hirohito chủ trì cuộc họp tại Đại bản doanh năm 1943. Các đô đốc hải quân ngồi bên trái
**Nguyên soái** () là một quân hàm trong quân đội Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1873. Sau thời kỳ trên, quân hàm này bị bãi bỏ. Đến năm 1898, Phủ Nguyên
Trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thuật ngữ **phương diện quân** (kanji: _方面軍_, rōmaji: _hōmengun_) được dùng để chỉ hình thái tổ chức cấp trên của biên chế _gun_ (軍; tương đương cấp quân
Đây là danh sách các hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lực lượng này tồn tại từ năm 1868 đến năm 1945, khi nó được thay thế bởi Lực lượng phòng vệ
Ban bố Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản (1889). ****, cũng được gọi là **Hiến pháp Đế quốc**, **Hiến pháp Minh Trị** hay **Hiến pháp Đại Nhật Bản** là bản Hiến pháp đầu tiên trong
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Đế quốc thực dân Nhật Bản** thành lập các thuộc địa ở nước ngoài thành lập bởi Đế quốc Nhật Bản trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á từ năm 1895. Số
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
là danh xưng lực lượng quân sự hợp thành của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi nắm được quyền lực kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện
nhỏ|300x300px| Đường phố ngập tràn tiền quân phiếu chiến tranh Nhật Bản, [[Yangon|Rangoon, 1945.]] **Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản**, tên chính thức là **Đại Đông Á Chiến tranh Quân phiếu** (, _Dai Tō-A Sensō
**Chiến tranh Nhật Bản-Lưu Cầu** là cuộc chiến do phiên Satsuma của Nhật Bản tiến hành vào năm 1609, tấn công Vương quốc Lưu Cầu. Cuộc chiến không dẫn đến nhiều thương vong vì Lưu
**Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản** là một dạng chủ nghĩa quốc gia của người Nhật, dùng để lý giải các tư tưởng và chính sách về văn hóa, ứng xử chính trị, vận mệnh
là nhánh hành pháp của chính quyền ở Nhật Bản. Đứng đầu nội các là . Giúp việc cho Thủ tướng là các . Thủ tướng do Quốc hội Nhật Bản bổ nhiệm. Còn bổ
thumb|Thủ tướng Nhật Bản [[Shinzō Abe (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Đà Nẵng, Việt Nam vào tháng 11 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Trung Quốc tại Nhật
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
, hay **Thời đại Meiji**, là thời kỳ 45 năm dưới triều Thiên hoàng Minh Trị, theo lịch Gregory, từ 23 tháng 10 năm 1868 (tức 8 tháng 9 âm lịch năm Mậu Thìn) đến
thumb|Nhật Bản chiếm đóng thành phố [[Khabarovsk của Nga trong Nội chiến Nga, 1919]] là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản từ ngày 30 tháng 7 năm 1912 đến 25 tháng 12 năm
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Mōri Motonari** (kanji: 毛利 元就, phiên âm Hán Việt: _Mao Lợi Nguyên Tựu_) là một lãnh chúa _Daimyō_ xứ Aki vào cuối thời kỳ Muromachi cho đến thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Nhật
**Thời kỳ Muromachi** (tiếng Nhật: 室町時代, _Muromachi-jidai_, còn gọi là "Thất Đinh thời đại" hay "Mạc phủ Muromachi", "thời kỳ Ashikaga", "Mạc phủ Ashikaga") là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản trong khoảng
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
nhỏ|Quân Nhật đổ bộ gần Thanh Đảo. Từ năm 1914 đến năm 1918, Nhật Bản tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất trong liên minh với các cường quốc thực thụ và đóng một
**Thời kỳ Kofun** (Kanji: 古墳時代, Rōmaji: _Kofun jidai_, phiên âm Hán-Việt: _Cổ Phần thời đại_) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ khoảng năm 250 đến năm 538. Từ kofun
là một trào lưu tư tưởng - chính trị ở Nhật Bản, được hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân (1868 – 1910) - cuộc cải cách đưa nước Nhật trở thành một
**Hệ thống đánh mã máy bay quân sự của Nhật Bản** trong thời kỳ Đế quốc (trước 1945) bao gồm hệ thống cho mỗi đơn vị vũ trang. Điều này dẫn đến việc sử dụng
thumb|Hình ảnh cuối thế kỉ 19 của một _[[yamabushi_ với đầy đủ áo choàng và trang bị, đang cầm một _naginata_ và một _tachi_.]] Các bộ môn **võ thuật Nhật Bản** bao gồm nhiều bộ
thế=|nhỏ|Buổi biểu diễn trên sân khấu của các thiếu nữ Nhật Bản cho Hitlerjugend Tội ác chiến tranh của Đế quốc Nhật Bản xảy ra ở nhiều nước Châu Á Thái Bình Dương trong thời
được thành lập vào ngày 1 tháng 6 năm 1901 với tên , là lực lượng quân sự Nhật Bản được triển khai trong quân đội Liên quân tám nước sau sự kiện Khởi nghĩa
**Sự kiện chùa Honnō** là diễn biến dẫn đến việc Oda Nobunaga phải tự sát ngày 21 tháng 6 năm 1582 ở chùa Honnō tại kinh đô Kyoto. Nobunaga lúc bấy giờ là lãnh chúa
phải|nhỏ|300x300px|Tòa nhà Bộ Hải quân, Tokyo, vào khoảng năm 1890 **Bộ Hải quân** (海軍省 _Kaigun-shō_
**Cuộc chiến Kawanakajima** (tiếng Nhật: 川中島の戦い, Kawanakajima no tatakai, _Xuyên Trung Đảo_ chiến) là loạt 5 trận đánh nổi tiếng vào các năm 1553, 1555, 1557, 1561 và 1564 (thời kỳ Chiến quốc) tại bình
, nguyên mang tên **_Đề án S22_** và **_Tàu ngầm số 44_**, là một tàu ngầm trong biên chế của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1924 đến năm 1938. Cho dù không