✨Thiết giáp hạm hiệp ước

Thiết giáp hạm hiệp ước

phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên Thiết giáp hạm hiệp ước là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong số các hiệp ước quốc tế quy định việc chế tạo tàu chiến. Nhiều trong số những con tàu này đóng vai trò tích cực trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng rất ít tàu sống sót sau đó.

Hiệp ước đầu tiên và quan trọng nhất là Hiệp ước Hải quân Washington được ký năm 1922 bởi năm cường quốc hải quân trên thế giới (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Ý). Các nước ký đã đồng ý tuân thủ các hạn chế nghiêm ngặt trong việc chế tạo thiết giáp hạm và thiết giáp tuần dương hạm, để ngăn chặn một cuộc chạy đua vũ trang hải quân như trước Thế chiến thứ nhất. Hiệp ước đã giới hạn số lượng tàu chủ lực của mỗi bên ký kết, và tổng trọng tải thiết giáp hạm của mỗi hải quân. Các tàu mới chỉ có thể được đóng để thay thế các tàu hiện tại khi chúng được cho nghỉ hưu sau 20 năm phục vụ. Hơn nữa, bất kỳ tàu mới nào cũng sẽ bị giới hạn ở súng cỡ nòng và trọng tải choán nước .

Các giới hạn của Hiệp ước Washington được mở rộng và sửa đổi bởi Hiệp ước Hải quân Luân Đôn năm 1930 và Hiệp ước Hải quân Luân Đôn thứ hai năm 1936. Tuy nhiên, trong những năm 1930,các thỏa thuận này đã bị phá vỡ vì một số cường quốc ký kết (đặc biệt là Nhật Bản) đã rút khỏi các thỏa thuận hiệp ước và các bên còn lại chỉ tuân theo hiệp ước trên danh nghĩa. Đến năm 1938, cả Anh và Hoa Kỳ đều sử dụng một 'điều khoản tăng cấp' trong Hiệp ước Luân Đôn thứ hai cho phép các bên còn lại đóng các thiết giáp hạm có trọng tải choán nước lên tới và đánh dấu sự chấm dứt của các hiệp ước này.

Các giới hạn nghiêm ngặt về độ choán nước đã buộc các nhà thiết kế tàu chiến phải hi sinh một số yếu tố trong thiết kế mà họ không muốn.Tuy nhiên, các giới hạn này đã giúp tạo ra nhiều công nghệ sáng tạo vào những năm 1920 và 1930 nhất là trong các mảng động cơ, cơ chế bảo vệ dưới nước và máy bay.

Bối cảnh

Sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc vào năm 1918, một số lượng lớn các hiệp ước nhằm đảm bảo hòa bình đã được ký kết. Theo nhà sử học Larry Addington, đó là "nỗ lực lớn nhất vào thời điểm đó để kiểm soát vũ khí và ngăn chặn chiến tranh thông qua các hiệp ước". hay Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928 mà trong đó các quốc gia ký kết hứa sẽ không sử dụng chiến tranh để giải quyết "tranh chấp hoặc xung đột với bất kỳ bản chất hoặc nguồn gốc nào mà có thể xảy ra giữa các bên ký kết" và nhiều hiệp ước khác. Các hiệp ước hải quân cụ thể xuất hiện trong thời kỳ này bao gồm Hiệp ước Hải quân Washington năm 1921 và Hiệp ước Hải quân Luân Đôn năm 1930.

Vào thời gian cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, Hải quân Mỹ bắt đầu công cuộc đóng một lượng lớn thiết giáp hạm mới với việc thông qua Đạo luật Hải quân năm 1916 cho phép đóng mười thiết giáp hạm và sáu thiết giáp tuần dương mới. Quốc hội Mỹ sau đó tiếp tục thông qua Đạo luật hải quân năm 1917 cho phép đóng thêm ba thiết giáp hạm nữa với mục tiêu tăng sức mạnh của Hải quân Mỹ để có thể bắt kịp hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1923 hay 1924. Giống vậy, chính phủ Nhật cũng đẩy nhanh tiến độ chương trình hạm đội tám-tám với việc đưa quyết định đóng các tàu lớp Kii và lớp số 13. Tuy nhiên, cả hai nước này đều không có tiềm lực kinh tế để cạnh tranh với chương trình đóng tàu của Mỹ. Nước Anh sợ rằng Mỹ sẽ vượt họ đã sẵn sàng nhảy vào đàm phán giới hạn quân bị với Hoa Kỳ. Cuối cùng, các cường quốc theo lời mời của Mỹ, đã cùng họp mặt để đàm phán chống lại một cuộc đua vũ trang tốn kém.

Các hiệp ước

Vào tháng 12 năm 1919, cựu Ngoại trưởng Anh Ngài Grey sứ Fallodon và Ngoại trưởng Ngài Robert Cecil đã gặp Edward House, cố vấn của Tổng thống Mỹ đương thời Woodrow Wilson, tại Washington DC. Tại cuộc họp, Hoa Kỳ đồng ý tạm thời làm chậm lại chương trình đóng tàu của họ đổi lấy việc người Anh phải rút lại sự phản đối việc đưa Học thuyết Monroe vào Công ước Hội Quốc Liên. Hội nghị Hải quân Washington được tổ chức để ngăn chặn một cuộc chạy đua vũ trang hải quân mới giữa các cường quốc. Hội nghị đã dẫn đến Hiệp ước Chín cường quốc, khẳng định lại sự ủng hộ đối với Chính sách mở cửa đối với Trung Quốc; Hiệp ước bốn cường quốc mà trong đó Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Nhật Bản đồng ý duy trì hiện trạng ở Thái Bình Dương, bằng cách tôn trọng các lãnh thổ Thái Bình Dương của các quốc gia ký kết thỏa thuận, không tìm cách mở rộng lãnh thổ và tham vấn với nhau trong trường hợp có tranh chấp về lãnh thổ.

Chương II, Phần 2, ghi chi tiết những gì cần làm để làm một con tàu không còn hiệu quả cho sử dụng quân sự. Ngoài việc đánh chìm hay tháo dỡ, một số lượng tàu giới hạn có thể được chuyển đổi thành tàu mục tiêu hoặc tàu huấn luyện nếu vũ khí, áo giáp và các bộ phận chiến đấu thiết yếu khác của chúng bị loại bỏ hoàn toàn. Phần 3, Phần II chỉ định đích danh các tàu bị loại bỏ để tuân thủ hiệp ước và khi nào các tàu còn lại có thể được thay thế. Tổng cộng, Hoa Kỳ đã phải loại bỏ 26 tàu chủ lực hiện có và đang lên kế hoạch, Anh bỏ 24 và Nhật Bản bỏ 16.

Hội nghị hải quân Genève

Hội nghị Hải quân Geneva lần thứ nhất là một cuộc họp giữa Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Nhật Bản (Pháp và Ý đã từ chối tham gia vào các cuộc đàm phán tiếp theo) do Tổng thống Mỹ Calvin Coolidge mời vào năm 1927. Mục đích của Hội nghị là tăng thêm các giới hạn hiện có về đóng tàu đã được thỏa thuận trong Hiệp ước Hải quân Washington. Hiệp ước Washington đã hạn chế việc chế tạo thiết giáp hạm và tàu sân bay, nhưng không giới hạn việc chế tạo tàu tuần dương, tàu khu trục hay tàu ngầm. Người Anh đề xuất hạn chế thiết giáp hạm xuống dưới , với súng . Hội nghị kết thúc mà không đạt được thỏa thuận nào. Hội nghị Hải quân Genève lần thứ hai năm 1932 cũng kết thúc tương tự mà không có thỏa thuận sau khi các quốc gia bế tắc vì vấn đề Đức tái vũ trang.

Các Hiệp ước Luân Đôn

Các giới hạn được đặt ra trong Hiệp ước Hải quân Washington được nhắc lại bởi Hiệp ước Hải quân Luân Đôn được ký năm 1930. Giới hạn tổng cho tàu ngầm đã được quyết định và kỳ nghỉ đóng tàu được kéo dài thêm mười năm.

Thiết giáp hạm

Giới hạn Hiệp ước Washington và Luân Đôn đã dẫn đến việc số thiết giáp hạm đóng giữa từ năm 1919-1939 ít hơn số tàu đóng từ năm 1905-1914 do "kỳ nghỉ đóng tàu" mà đến năm 1933 mới kết thúc. Nó còn hạn chế sự phát triển của thiết giáp hạm do giới hạn tối đa mà nó đặt lên trọng tải tàu. Các dự án như lớp N3 của Anh, lớp Kii của Nhật và lớp South Dakota (1920) của Mỹ, đều là các thiết kế theo chiều hướng phát triển của thiết giáp hạm lúc bấy giờ thì bị hủy hết.

Chiếc Mutsu của Nhật được đặt lườn vào ngày 1 tháng 6 năm 1918 là một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Nó bị Mỹ và Anh buộc phải hủy bỏ nhưng phái đoàn Nhật giữ được nó với điều kiện Mỹ và Anh được đóng thêm hai tàu súng 16-inch. Trong số các tàu đang đóng còn lại của Nhật bao gồm bốn tàu thiết giáp tuần dương lớp Amagi,hai tàu thiết giáp hạm lớp Tosa và kế hoạch đóng thêm tám tàu thiết giáp hạm lớp Kii và Lớp số 13 đều bị hủy bỏ. Hải quân Nhật chỉ được phép đem hai tàu thiết giáp tuần dương Amagi và Akagi (sau này là Akagi và Kaga sau khi Amagi bị động đất làm hỏng nặng) chuyển thể thành tàu sân bay . Còn vỏ tàu chưa hoàn thành của chiếc Tosa thì được dùng làm tàu mục tiêu để thử nghiệm vũ khí.Các hiệp ước không cho phép Nhật đóng bất kỳ tàu chủ lực mới nào cho đến ít nhất năm 1935 nên họ đổi sang tập trung phát triển các loại tàu tuần dương cùng với các chương trình nâng cấp tàu chủ lực còn lại. Sau khi bãi bỏ các Hiệp ước vào năm 1936, Nhật ngay lập tức bắt đầu thiết kế và đóng siêu thiết giáp hạm lớp Yamato. Hai tàu Yamato và Musashi là thiết giáp hạm lớn nhất thế giới từng được hoàn thành với trọng tải 71 000 tấn và mang chín súng 46cm.

Trong trường hợp của Hoa Kỳ thì họ được phép giữ ba chiếc Colorado đã được tài trợ trong Đạo luật Hải quân năm 1916 và sử dụng tổng cộng 500 360 tấn Anh trong giới hạn tàu chủ lực trong Hiệp ước Washington. Nhu cầu giảm chi tiêu quốc phòng của Đảng Cộng hòa dẫn đến việc nước Mỹ không vượt quá giới hạn này trong một thời gian dài. Mỹ buộc phải hủy chiếc USS Washington thuộc lớp Colorado cùng với kế hoạch đóng sáu tàu lớp South Dakota và bốn tàu lớp Lexington. Giống như Nhật, Hải quân Mỹ được đem hai tàu thiết giáp tuần dương Lexington và Saratoga chuyển thể thành tàu sân bay. Riêng chiếc Washington được dùng làm tàu mục tiêu để thử nghiệm vũ khí và nghiên cứu cơ chế phòng thủ. Khác với Mỹ và Nhật, Anh không có dự án nào trong trạng thái gần hoàn thành nên được quyền đóng lớp Nelson. Điều kiện Hiệp ước đảm bảo Hải quân Hoàng gia Anh vẫn giữ được ưu thế bá chủ tại châu Âu nhưng dẫn đến tình trạng đội tàu chủ lực chở nên lỗ thời. Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ vào năm 1939, chỉ có 2 trong số 14 tàu chủ lực của Anh là được thiết kế sau Thế chiến thứ nhất. Họ sau đó hoàn thành các chiếc Yamato mà phạm vi điều kiện hiệu ước một cách trắng trợn.

Hiệp ước đã kiềm hãm sự phát triển của thiết giáp hạm đến mức mà khi các nước bắt đầu tái vũ trang, sự phát triển của không lực hải quân và tàu ngầm đã bắt đầu sự lỗ thời của các thiết giáp hạm. Nó vẫn giúp thúc đẩy một cuộc cách mạng cuối cùng cho công nghệ Dreadnought.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Nelson_** là tên của một lớp thiết giáp hạm gồm hai chiếc: _Nelson_ và _Rodney_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia không lâu sau khi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 có
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**_Roma_** là một thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Được đặt theo tên của thành phố Roma, đây là thiết giáp hạm thứ ba của lớp _Littorio_ và là một
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ thứ nhất là một lớp bao gồm sáu thiết giáp hạm, được đặt lườn vào năm 1920 cho Hải quân Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Nếu
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**Lớp thiết giáp hạm _Iron Duke**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp bao gồm bốn chiếc: _Iron
**Lớp thiết giáp hạm Amagi** là một lớp thiết kế thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong những năm 1920. Chúng được thiết kế để củng cố "Hạm đội tám-tám"
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**Lớp thiết giáp hạm _Normandie**_ là những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Pháp đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt tên theo những tỉnh của nước Pháp,
**Lớp thiết giáp hạm _Florida**_ của Hải quân Hoa Kỳ bao gồm hai chiếc: và . Lần lượt được hạ thủy vào các năm 1910 và 1909 tương ứng và được đưa ra hoạt động
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**Lớp thiết giáp hạm _King George V**_ là một loạt bốn thiết giáp hạm siêu-dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục
**Lớp thiết giáp hạm _Montana**_ là một lớp thiết giáp hạm được vạch kế hoạch cho Hải quân Hoa Kỳ nhằm nối tiếp lớp _Iowa_; sẽ chậm hơn nhưng lớn hơn, có vỏ giáp tốt
**_Fuji_** (tiếng Nhật: 富士) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Fuji_ vào cuối thế kỷ 19, và
**_Dunkerque_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Jean Bart_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp thuộc lớp _Richelieu_. Được đặt tên theo nhà hàng hải và hải quân thế kỷ 17 Jean Bart, nó chỉ mới hoàn tất được
**Lớp thiết giáp hạm _Katori**_ (香取型戦艦 - Katori-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Katori_ là những thiết giáp
**Lớp thiết giáp hạm _Satsuma**_ (薩摩型戦艦 - Satsuma-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Satsuma_ là những chiếc thiết
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**_Asahi_** (tiếng Nhật: 朝日) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được chế tạo cùng lúc với lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20,
**_Shikishima_** (tiếng Nhật: 敷島) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20, và
**_Strasbourg_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ hai trong lớp _Dunkerque_ được đóng mới kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Richelieu_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó đã phục vụ trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai theo
**Lớp thiết giáp hạm _Kawachi**_ (tiếng Nhật: 河内型戦艦, Kawachi-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo sau khi