Dunkerque là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải quân Washington. Nó đã hoạt động trong giai đoạn đầu của chiến tranh cho đến khi bị Hải quân Anh tấn công tại cảng Mers-el-Kébir bên bờ Địa Trung Hải, rồi bị đánh đắm tại Toulon vào tháng 11 năm 1942.
Thiết kế
Trang bị vũ khí không mạnh và vỏ giáp yếu hơn những thiết giáp hạm đương thời, lớp Dunkerque được xem là một thiết giáp hạm thu nhỏ, và chúng được đánh giá là cân bằng hơn so với tàu chiến-tuần dương, khi phải đánh đổi tính năng hoạt động giữa vỏ giáp và vũ khí trang bị. Được thiết kế nhằm đối phó với những "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland của Đức, Dunkerque tỏ ra vượt trội hơn về mọi mặt so với chúng, vốn dựa trên thiết kế tàu tuần dương hạng nặng được mở rộng.
nhỏ|trái|Sơ đồ mô phỏng Dunkerque
Thiết kế của Dunkerque rất sáng tạo, toàn bộ dàn pháo chính được bố trí trên hai tháp pháo bốn nòng phía trước cho phép bắn toàn bộ hỏa lực ra phía trước không giới hạn. Đây cũng là sơ đồ lớp thiết giáp hạm Nelson của Hải quân Hoàng gia Anh, nhưng với ba tháp pháo mang chín khẩu pháo, nên góc bắn của tháp pháo sau cùng bị giới hạn bởi tháp pháo trước mặt nó. Việc bố trí toàn bộ dàn pháo chính trên tháp pháo bốn nòng là đặc tính độc đáo của thiết kế những thiết giáp hạm Pháp cuối cùng, được áp dụng cho những chiếc Richelieu và Jean Bart tiếp theo. Lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh cũng có đặc tính này.
Lịch sử hoạt động
Trong cuộc Chiến tranh Giả vờ, Dunkerque được sử dụng cùng với tàu chị em Strasbourg trong việc đảm bảo an toàn các tuyến đường thương mại hàng hải quốc tế. Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1939, nó cùng với tàu chiến-tuần dương Anh HMS Hood truy tầm các thiết giáp hạm Scharnhost và Gneisenau.
Từ năm 1939, Dunkerque cùng Strasbourg, các tàu tuần dương và các tàu khu trục lớn của Pháp đã hình thành nên một lực lượng đặc nhiệm nhanh đặt tên là Lực lượng Bắn phá, đặt căn cứ tại Brest, với Dunkerque làm soái hạm. Tháng 12 năm 1939, Dunkerque tham gia vào việc vận chuyển sang Canada một phần số vàng dự trữ của Ngân hàng Pháp.
Sau khi Pháp đầu hàng, Dunkerque cùng với Strasbourg neo đậu tại cảng Mers-El-Kebir thuộc Algerie. Cả hai trở thành mục tiêu của cuộc tấn công vào ngày 3 tháng 7 năm 1940, bởi Lực lượng H của Hải quân Hoàng gia Anh, bao gồm tàu chiến-tuần dương HMS Hood cùng các thiết giáp hạm HMS Revenge và HMS Valiant. Trong khi Strasbourg may mắn thoát khỏi tầm hỏa lực và sự truy đuổi để đến được Toulon vào ngày hôm sau, Dunkerque bị bắn trúng bốn phát đạn pháo hạng nặng: phát thứ nhất nảy tung trên nóc tháp pháo 330 mm phía trước, làm thiệt mạng toàn bộ người trong nữa tháp pháo bên phải; phát thứ hai gây hư hại thiết bị máy bay; hai phát cuối làm hỏng nồi hơi và phá hủy máy phát điện, nên nó phải neo đậu lại phía bên kia vũng biển Mers-el-Kebir.
Những hư hại này không đến mức quá nghiêm trọng như lo sợ, vì phía Anh đã ngừng bắn sau không đầy 15 phút vì đô đốc Pháp ra hiệu cho biết ông đã ra lệnh ngừng bắn. Nên Đô đốc Esteva, Tổng tư lệnh Hải quân Pháp tại Bắc Phi, báo cáo bằng vô tuyến về Bộ Hải quân Pháp về một tình trạng "hư hỏng trung bình" của con tàu. Biết được điều này, Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho Đô đốc Sommerville, Tư lệnh Lực lượng H, tiếp tục tấn công để loại bỏ hoàn toàn Dunkerque khỏi vòng chiến đấu.
Dunkerque mắc cạn tại bờ biển ngay phía trước một ngôi làng, khiến Đô đốc Sommerville lo ngại việc hỏa lực hải pháo có thể gây thương vong nặng nề cho thường dân; ông ra lệnh ngừng bắn, vào ngày 6 tháng 7 tiếp tục tấn công nó bằng máy bay ném ngư lôi xuất phát từ tàu sân bay HMS Ark Royal. Một quả ngư lôi đã đánh trúng một tàu tuần tra nhỏ mang theo mìn sâu đang cặp mạn chiếc Dunkerque. Hậu quả của vụ nổ đã làm mở toang một lỗ hổng lớn bên lườn chiếc thiết giáp hạm, làm thiệt mạng hơn 200 thủy thủ, khiến nó chìm tại vùng nước nông.
Được cho nổi trở lại và sửa chữa sơ sài, Dunkerque quay trở lại Toulon bằng chính động lực của nó vào tháng 2 năm 1942, nơi nó được đưa vào ụ tàu để tiếp tục sửa chữa. Khi quân Đức tìm cách chiếm lấy Hạm đội Pháp tại Toulon vào ngày 27 tháng 11 năm 1942, Dunkerque bị thủy thủ đoàn của nó tự đánh đắm. Vị chỉ huy của nó, Đại tá Hải quân Amiel, thoạt tiên từ chối không chịu đánh đắm tàu của mình mà không có mệnh lệnh viết tay, nhưng cuối cùng bị thuyết phục bởi vị chỉ huy tàu tuần dương hạng nhẹ La Galissonnière lân cận.
Dunkerque bị quân Đức và Ý tháo dỡ một phần và nhiều lần bị Đồng Minh ném bom. Nó được cho nổi lại vào năm 1945, bị bỏ xó trong một tình trạng tồi tệ, và bị tháo dỡ vào năm 1958.
Những hình ảnh
Image:Dunkerque-206a4020.jpg
Image:Dunkerque-2.jpg
Image:Dunkerque-3.jpg
Image:Dunkerque-4.jpg
Image:Dunkerque Shell.JPG|Một quả đạn pháo 330 mm như được sử dụng bởi dàn pháo chính của _Dunkerque_ và _Strasbourg_.
Image:Dunkerque plan.jpeg|Mô hình ba chiều của con tàu
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Dunkerque_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Strasbourg_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ hai trong lớp _Dunkerque_ được đóng mới kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Jean Bart_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp thuộc lớp _Richelieu_. Được đặt tên theo nhà hàng hải và hải quân thế kỷ 17 Jean Bart, nó chỉ mới hoàn tất được
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**_Richelieu_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó đã phục vụ trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai theo
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Béarn_** là một tàu sân bay độc đáo từng phục vụ Hải quân Pháp (Marine nationale) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và sau đó. Sự lạc hậu vào lúc chiến tranh nổ ra
**_Gloire_** (tiếng Pháp: vinh quang) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong
**_Montcalm_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt
**_Georges Leygues_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_La Galissonnière_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu của lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai.
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu khu trục _Mogador**_ bao gồm hai tàu khu trục lớn () được Hải quân Pháp đặt lườn vào năm 1935 và đưa ra hoạt động vào năm 1939. Chúng là những tàu khu
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,