✨Gneisenau (thiết giáp hạm Đức)

Gneisenau (thiết giáp hạm Đức)

Gneisenau là một tàu chiến lớp Scharnhorst thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu tải trọng 31.100 tấn này là chiếc thứ ba được đặt tên theo vị tướng Phổ August von Gneisenau; sau chiếc tàu frigate lườn sắt ba cột buồm SMS Gneisenau hạ thủy năm 1879 và bị đắm năm 1900; và chiếc tàu tuần dương bọc thép thời Thế Chiến I SMS Gneisenau bị tiêu diệt trong Trận chiến quần đảo Falkland năm 1914.

Gneisenau thường tham gia tác chiến cùng chung với con tàu chị em Scharnhorst vào giai đoạn đầu của Thế Chiến II. Sau khi bị hư hại nặng bởi một cuộc ném bom của Đồng Minh vào năm 1942, nó trải qua một cuộc cải biến nâng cấp rộng rãi, tuy nhiên công việc bị ngừng lại vào năm 1943 và số phận nó kết thúc khi bị đánh chìm như một tàu ụ cản tại Gdynia vào ngày 23 tháng 3 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

nhỏ|trái|Gneisenau vào năm [[1942]] Gneisenau được đặt lườn vào tháng 2 năm 1934 tại xưởng tàu Deutsche Werke ở Kiel. Tuy nhiên, công việc bị trì hoãn, nó được tái thiết kế và công việc chế tạo được tiếp tục vào tháng 5 năm 1935. Khi hoàn tất, nó có tải trọng ngay bên dưới giới hạn 35.000 tấn do Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra cho dù Đức chưa bao giờ chịu ảnh hưởng bởi hiệp ước này.

Gneisenau mang một đai giáp chính dày 350 mm (13,78 inch), so sánh được với những thiết giáp hạm hiện đại vào thời đó, và dày hơn đáng kể so với các tàu chiến-tuần dương Anh thời Thế Chiến I HMS Renown và HMS Repulse cũng như các thiết giáp hạm nhanh của Pháp DunkerqueStrasbourg. Con tàu được trang bị dàn pháo chính gồm chín khẩu 283 mm (11,1 inch). Trong khi cỡ pháo này có tầm xa và sức mạnh xuyên thủng vỏ giáp khá tốt nhờ vào lưu tốc đầu đạn lớn, cũng như được nhiều sĩ quan cao cấp của Kriegsmarine ưa chuộng do tốc độ bắn cao; chúng không thể sánh được với cỡ pháo 380 mm (15 inch) trang bị trên phần lớn thiết giáp hạm vào thời đó. Sự lựa chọn kiểu vũ khí này là hậu quả của việc vội vã đưa các con tàu vào hoạt động, Hitler cũng được nhắc nhở rằng, mặc dù được cho phép trong Thỏa thuận, người Anh trong lịch sử tỏ ra nhạy cảm đối với việc tăng cỡ nòng pháo chính trên các tàu chiến chủ lực Đức.

Lịch sử hoạt động

nhỏ|Gneisenau vào năm 1938 Gneisenau thường hoạt động cùng chung với con tàu chị em Scharnhorst, và hai con tàu này bị đặt biệt danh "chị em xấu xí" (ugly sisters) do việc chúng thường hoạt động rình rập chung với nhau, cũng như sự phá hoại mà chúng gây ra cho tàu bè Anh. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1939, sáu ngày sau khi chiến tranh được tuyên bố, Gneisenau bị máy bay Không quân Hoàng gia Anh tấn công tại Brunsbüttelkoog nhưng không bị thiệt hại. Vào ngày 8 tháng 10, nó di chuyển cùng với tàu tuần dương Köln và 9 tàu khu trục để nghi binh đối phó lại lực lượng Đồng Minh đang săn lùng thiết giáp hạm bỏ túi Deutschland.

Chiến tranh giả mạo

Cùng với Scharnhorst, Gneisenau đã thực hiến chuyến đi vượt qua eo biển giữa Iceland và quần đảo Faroe kéo dài trong sáu ngày từ 21 đến 27 tháng 11 năm 1939, khi chúng đã đánh chìm tàu buôn tuần dương vũ trang Anh HMS Rawalpindi, cho dù nạn nhân của chúng đã kháng cự kiên cường. Thuyền trưởng của Rawalpindi, Đại tá Hải quân, Edward Coverley Kennedy (cha của nhà sử học hải quân Ludovic Kennedy), đã nhìn thấy một tàu chiến lớn vào lúc khoảng 15 giờ 30 phút, mà Kennedy nhận định là chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Deutschland. Trông thấy một tàu chiến lớn khác, Kennedy nghĩ rằng đó là một tàu tuần dương hạng nặng của Anh, hy vọng sẽ là vị cứu tinh của Rawalpindi, vì vậy ông đã bỏ qua những phát pháo cảnh báo của Scharnhorst. Không may thay, con tàu được trông thấy lại là Gneisenau, và Kennedy nhận ra đã bị bao vây. Trận chiến sau đó chỉ diễn ra trong vòng 15 phút. Scharnhorst cuối cùng đánh chìm con tàu, làm thiệt mạng 238 người trong đó có Kennedy. Hải đội Đức đã dừng lại để cứu vớt 38 người sống sót trên mặt biển giá lạnh. Các chỉ huy Đức trên cả GneisenauScharnhorst đều tán dương sự dũng cảm của thuyền trưởng và thủy thủ đối phương. Ngày 5 tháng 5, nó làm kích nổ một quả thủy lôi từ tính ở khoảng cách 21 m ở phía đuôi mạn trái, bị hư hại do sức ép, làm ngập nước và mất lái trong 18 phút; việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 21 tháng 5 tại Kiel. Khi Anh triệt thoái khỏi Na Uy vào ngày 8 tháng 6, nó cùng với Scharnhorst đã bất ngờ tấn công và đánh chìm chiếc tàu sân bay cũ của Anh HMS Glorious cùng hai tàu khu trục theo hộ tống HMS AcastaArdent. Trong trận này, Acasta trước khi chìm đã đánh trúng Scharnhorst một quả ngư lôi vào mạn phải ngang với tháp pháo "Caesar" gây ngập nước đáng kể.

Gneisenau trúng phải ngư lôi của HMS Clyde tại Bắc Đại Tây Dương vào tháng 6 và bị buộc phải quay về cảng Trondheim, Na Uy, để sửa chữa.

Thoát ra Đại Tây Dương

Sau những sửa chữa, lại gia nhập cùng Scharnhorst trong chiến dịch đánh cướp tàu buôn thành công nhất của chúng, Chiến dịch Berlin, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1941, khi Gneisenau đánh chìm 14 tàu và Scharnhorst đánh chìm 8, hầu hết là từ những đoàn tàu vận tải không được hộ tống. Chúng né tránh các thiết giáp hạm Anh hoạt động như là tàu hộ tống cho các đoàn tàu vận tải.

Hai con tàu chị em từ Đại Tây Dương quay trở về cảng Brest, Pháp, và bắt đầu chuẩn bị cho đợt hoạt động tiếp theo. Gneisenau đi vào ụ tàu thực hiện những sửa chữa nhỏ. Vào đầu tháng 4 năm 1941, một quả bom không phát nổ, được ném trong các cuộc không kích gần như liên tục của máy bay ném bom thuộc Bộ chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia nhắm vào các con tàu, đã buộc Gneisenau phải rời khỏi ụ tàu neo đậu trong cảng. Phi đội 22 Không quân Hoàng gia Anh, một đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Duyên hải đặt căn cứ tại St. Eval được gửi đến để tấn công Gneisenau. Kết quả là Gneisenau bị trúng ngư lôi vào ngày 6 tháng 4 năm 1941 bởi một chiếc Bristol Beaufort do Trung úy Kenneth Campbell điều khiển. Gneiseau bị hư hại nặng và phải quay trở vào ụ tàu, để lại bị hư hại thêm bởi bốn quả bom ném từ máy bay trong đêm 9-10 tháng 4. Nó được sửa chữa tại Brest cho đến tháng 12 năm 1941.

Vượt qua eo biển Anh Quốc

Vào năm 1942, GneisenauScharnhorst, được tháp tùng bởi tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen và một lực lượng hộ tống gồm tàu khu trục và tàu phóng lôi, đã thực hiện chuyến đi mang mật danh Chiến dịch Cerberus, để băng qua eo biển Anh Quốc ngay giữa ban ngày nhằm quay trở về Đức. Cả ba chiếc tàu chiến hạng nặng đều tránh được thiệt hại trong các cuộc tấn công mãnh liệt từ trên không và mặt biển diễn ra sau đó. GneisenauPrinz Eugen đã gây hư hại nặng cho tàu khu trục HMS Worcester. Nhiều loạt đạn của Gneisenau đã phá hủy mạn phải của cầu tàu cùng các phòng nồi hơi số 1 và số 2; Prinz Eugen cũng bắn trúng chiếc tàu khu trục bốn lần, khiến nó bốc cháy. Sau đó Gneisenau trúng phải một quả thủy lôi ngoài khơi Terschelling, Hà Lan, buộc phải được sửa chữa tại Kiel.

Không kích Kiel

Trong khi đang ở trong ụ tàu để sửa chữa những hư hại gây ra bởi mìn, nó trở thành mục tiêu của một cuộc không kích lớn vào ngày 26–27 tháng 2 năm 1942, được thực hiện bởi 178 máy bay ném bom Không quân Hoàng gia Anh, và Gneisenau bị đánh trúng vào mũi tàu. Trái ngược với thực hành thông thường, đạn dược đã không được chất dỡ khỏi tàu khi nằm trong ụ tàu, cho dù công việc sửa chữa không thể hoàn tất trong vòng hai tuần. Đám cháy phát sinh đã gây ra một vụ nổ lớn làm hủy hoại toàn bộ phần mũi tàu. Sau khi được sửa chữa mũi tàu khẩn cấp, Gneisenau di chuyển bằng chính động lực của nó đến Gotenhafen, nơi nó được cho ngừng hoạt động để tái cấu trúc toàn bộ.

Tái cấu trúc – Bỏ xó – Đánh chìm

Cho dù một số công việc tại xưởng tàu đã được thực hiện từ năm 1942 đến năm 1944 để tái cấu trúc, Gneisenau được rút hoàn toàn khỏi phục vụ vào tháng 7 năm 1943 nhằm cho phép thay thế các khẩu pháo chính 28,3 cm (11,1 inch) của nó bằng các tháp pháo 38 cm (15 inch) SK C/34 nòng đôi. Ngoài ra, người ta còn dự định kéo dài mũi tàu thêm 10 m, với mũi tàu dạng góc nhọn cao gần đến sàn tàu trên và loại bỏ mũi tàu bầu. Thay đổi này là cần thiết nhằm hiệu chỉnh lại mớn nước và kiểu dáng, và do sự thay đổi của dàn vũ khí. Do thêm nhiều trọng lượng được chất lên khi tái cấu trúc, con tàu bị mất đi nhiều phần nổi, và với tải trọng hoạt động trong thời chiến, mép trên của đai giáp chỉ cao hơn 1,2 m đối với mực nước. Việc khảo sát cũng được thực hiện nhằm xem khả năng đưa Gneisenau quay trở lại tầm nước ban đầu bằng cách gia tăng độ rộng mạn thuyền.

Cho dù một số nguồn có đề cập đến việc thay thế dàn pháo hạng hai 15 cm và 10,5 cm của Gneisenau bằng 11 tháp pháo 128 mm nòng đôi kín, điều này có thể đã không được đặt ra. Mọi khẩu pháo cỡ trung có thể đã được giữ lại, chỉ có thành phần và số lượng của vũ khí phòng không 20 mm được tăng cường do nhu cầu của thời chiến.

Sau việc chiếc Scharnhorst bị đánh chìm vào tháng 12 năm 1943, mọi công việc trên chiếc Gneisenau bị hủy bỏ. Nó kết thúc cuộc chiến tranh như một tàu ụ cản, bị đánh chìm tại cảng Gotenhafen vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Nó được người Ba Lan trục vớt và tháo dỡ sau chiến tranh.

Những di sản sau chiến tranh

Một trong các khẩu pháo 38 cm dự định cho việc tái vũ trang nó hiện vẫn còn tại bảo tàng Hanstholm ở Đan Mạch. Khẩu pháo này là một phần của kế hoạch pháo phòng thủ duyên hải "Tirpitz" của Đức tại Oksby, Đan Mạch, gần ngọn hải đăng Blåvand ở bờ biển Tây Nam Jylland; những khẩu 38 cm ban đầu tại Hanstholm (số 70, 71, 74 và 75) đã bị phá hủy trong những năm 1950. Các khẩu pháo 28 cm của tháp pháo Anton được tháo dỡ và gửi đến Hà Lan để sử dụng tại đây; các tháp pháo BrunoCeasar cùng những khẩu pháo của chúng được gửi đến Na Uy dùng làm pháo phòng thủ duyên hải. nhỏ|Tháp pháo Ceasar của Gneisenau tại Na Uy. Tháp pháo chính phía sau Ceasar được cải biến thành một khẩu đội pháo duyên hải tại pháo đài "Austråt" ở Ørland gần Trondheim, Na Uy, và hiện vẫn còn tồn tại như một bảo tàng. Tháp pháo thứ hai tên Bruno được đặt tại một khẩu đội pháo duyên hải ở pháo đài Fjell gần Bergen; chỉ còn lại bệ bằng bê tông cho dù đã bị thay đổi nhiều. Tại Đan Mạch, ở pháo đài "Stevnsfort" trước đây gần Rødvig, hai tháp pháo nòng đôi 15 cm từ dàn pháo hạng hai của nó vẫn còn tồn tại. Tại Hà Lan, một phần của tháp pháo Anton hiện đang được trưng bày tại "Pháo đài Stichting" trước đây ở Hoek Van Holland.

Những hình ảnh

Image:Bundesarchiv DVM 10 Bild-23-63-02, Schlachtschiff "Gneisenau".jpg Image:Bundesarchiv DVM 10 Bild-23-63-11, Schlachtschiff "Gneisenau".jpg Image:Bundesarchiv DVM 10 Bild-23-63-21, Schlachtschiff "Gneisenau".jpg Image:Bundesarchiv DVM 10 Bild-23-63-52, Schlachtschiff "Gneisenau".jpg
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
{| **_Scharnhorst_** là tàu chiến chủ lực(thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm) của Đức,, được chế tạo cho Hải quân Đức quốc Xã (_Kriegsmarine_) sau Chiến tranh Thế giới
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp thiết giáp hạm _Queen Elizabeth**_ bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm thế hệ siêu-dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của lớp được đặt nhằm tôn vinh Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất
**_Dunkerque_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải
**HMS _Rodney**_ (số hiệu: 29) là một trong hai thiết giáp hạm lớp _Nelson_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào giữa những năm 1920. Tên của nó được đặt nhằm tôn vinh
**HMS _King George V_ (41)** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _King George V_ của năm 1939. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được
**_U-124_** (tên lóng "Edelweissboot") là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940,
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là
**HMS _Malaya**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai, từng có mặt
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**_U-63_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**HMS _Edinburgh_ (16)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. _Edinburgh_ thuộc về lớp phụ cuối cùng gồm hai chiếc, vốn còn bao gồm HMS
**HMS _Naiad_ (93)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đưa ra hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai và
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**SMS _Scharnhorst**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. _Scharnhorst_ là chiếc dẫn đầu cho
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**Trận chiến quần đảo Falkland** là một thắng lợi của Hải quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**SMS _Gneisenau**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức thuộc lớp _Scharnhorst_, được đặt tên theo August von Gneisenau, vị tướng lĩnh người Phổ từng tham gia chiến tranh
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**HMS _Tartar_ (L43/F43)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**HMS _Glorious**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Ban đầu nó được chế tạo tại xưởng đóng tàu Harland and Wolff như một "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn". _Glorious_
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**Trận chiến eo biển Đan Mạch** (tiếng Anh: _Battle of the Denmark Strait_; tiếng Đức: _Schlacht bei Dänemarkstraße_) diễn ra vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**HMS _Ardent_ (H41)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại vùng biển nhà và ngoài khơi
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**HMS _Renown**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Repulse_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc
**HMS _Norfolk_ (78)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _Norfork_, cùng chung với chiếc HMS Dorsetshire
**HMS _Acasta_ (H09)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Anh mang cái tên HMS _Acasta_, nó được hạ
**HMS _Aurora_ (12)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Arethusa_ gồm bốn chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã
**HMS _Abdiel**_ (M39) là một tàu rải mìn được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc dẫn đầu của lớp tàu rải mìn mang tên
**HMS _Welshman_ (M48)** là một tàu rải mìn thuộc lớp _Abdiel_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó từng phục vụ cùng Hạm đội Nhà,
**HMS _Southampton_ (C83)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936), từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã bị máy
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**HMS _Cottesmore_ (L78)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và nhập biên chế năm 1940. Nó đã hoạt động trong
**HMS _Berkeley_ (L17)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt
Ba tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Acasta**_, cùng hai chiếc khác được dự định: * là một tàu frigate hạng năm 40 khẩu pháo hạ thủy
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên