✨Dunkerque (lớp thiết giáp hạm)

Dunkerque (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm đương thời của các nước khác, chúng được thiết kế nhằm đối phó lại mối đe dọa từ những thiết giáp hạm bỏ túi thuộc lớp Deutschland của Đức. Chúng có sự bố trí dàn pháo chính độc đáo, với hai tháp pháo 330 mm/50 Modèle 1931 bốn nòng hướng ra phía trước. Trong chiến tranh, thoạt tiên chúng đã cùng các tàu chiến Anh truy đuổi các tàu chiến Đức đang đánh phá các tuyến đường thương mại hàng hải; nhưng vào năm 1940, do nằm dưới quyền kiểm soát của phe Pháp Vichy, chúng bị Hải quân Anh tấn công tại cảng Mers-el-Kébir bên bờ Địa Trung Hải, rồi cả hai sau đó bị đánh đắm tại Toulon vào tháng 11 năm 1942.

Bối cảnh

Hội nghị Hải quân Washington năm 1922, kết thúc với thỏa thuận Hiệp ước Hải quân Washington, quyết định ngừng việc đóng mới thiết giáp hạm trong vòng mười năm; khi mà một cuộc chạy đua vũ trang hải quân mới đang diễn ra giữa Hoa Kỳ, Anh Quốc và Nhật Bản; với các lớp thiết giáp hạm ColoradoSouth Dakota của Mỹ, lớp tàu chiến-tuần dương G3 của Anh, lớp thiết giáp hạm NagatoTosa cùng lớp tàu chiến-tuần dương Amagi của Nhật đang được chế tạo hay lên kế hoạch. Hiệp ước cho phép Hoa Kỳ hoàn tất các thiết giáp hạm ColoradoMaryland thuộc lớp Colorado; Anh được phép đóng mới hai thiết giáp hạm trong giới hạn được đưa ra bởi Hiệp ước: tải trọng 35.000 tấn và cỡ pháo chính 16 inch; và Nhật Bản tiếp tục hoàn tất chiếc Mutsu thuộc lớp Nagato. Pháp và Ý mỗi nước sẽ được phép thay thế, sau năm 1927, hai trong số các thiết giáp hạm cũ của họ, theo những giới hạn về tải trọng và cỡ pháo như đã nêu trên.

Đức Quốc xã không bị ràng buộc bởi Hiệp ước Washington, nhưng theo những quy định riêng của Hiệp ước Versailles, trong đó cấm chế tạo mọi tàu chiến có tải trọng lớn hơn 10.000 tấn. Giới hạn này còn thấp hơn cả tải trọng của lớp tàu tuần dương bọc thép Minotaur của Anh hay lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought Deutschland của Đức, tất cả đều được đóng trước năm 1910.

Hoa Kỳ, Anh và Nhật Bản đã sử dụng hết những hạn ngạch cho phép được quy định bởi Hiệp ước Washington, nhưng Pháp và Italy đã không sử dụng. Lý do chính là do những khó khăn tài chính mà hai nước này gặp phải; nhưng ngay cả trong các cuộc đụng độ hải quân, tầm quan trọng của việc chế tạo thiết giáp hạm rất đáng nghi ngờ, vì không có một thắng lợi quyết định nào được đưa đến trong các cuộc đối đầu giữa những thiết giáp hạm, kể từ chiến thắng của Hoa Kỳ tại vịnh Manila và Santiago de Cuba trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và chiến thắng của Nhật Bản trong trận Hải chiến Tsushima, hơn 24 và 17 năm trước đó.

Kinh nghiệm trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất cho thấy rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn các tuyến đường thương mại hàng hải, một nhiệm vụ mà tàu tuần dương tỏ ra phù hợp hơn so với những thiết giáp hạm. Vì vậy trong những năm đầu tiên sau Hiệp ước Washington đã chứng kiến việc đóng mới những lớp tàu tuần dương hạng nặng bởi tất cả các quốc gia tham gia vào Hiệp ước.

Vào cuối những năm 1920, những thiết giáp hạm mạnh mẽ nhất trang bị bốn tháp pháo nòng đôi cỡ 381 mm (15 inch) (lớp Queen ElizabethRevenge cùng tàu chiến-tuần dương HMS Hood) hoặc 406 mm (16 inch) (ColoradoNagato) ngoại trừ lớp Nelson mang ba tháp pháo 406 mm (16 inch) ba nòng phía trước. Đa số chúng có tốc độ tối đa 21-24 knot (Revenge, Colorado, Nelson, Queen Elizabeth), một ít có tốc độ 27 knot (Nagato), với ngoại lệ đáng kể là các tàu chiến-tuần dương lớp Renown và chiếc HMS Hood có tốc độ trên 30 knot.

Bộ Hải quân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Phó Đô đốc Henri Salaun và Tham mưu trưởng, Phó Đô đốc Violette, đã bàn luận trong những năm 1920 về những kiểu thiết kế tàu chiến khác nhau có thể "tiêu diệt" tàu tuần dương, có vũ khí mạnh hơn và chạy nhanh hơn tàu tuần dương hạng nặng. Một trọng lượng rẽ nước 17.500 hoặc 23.333 tấn sẽ cho phép chế tạo bốn hoặc ba chiếc trong hạn ngạch tối đa 70.000 tấn mà Hiệp ước Washington dành cho Pháp để đóng mới hai chiếc thay thế. Một sự bố trí dàn pháo chính gồm hai tháp pháo 305 mm (12 inch) bốn nòng phía trước được xem xét, kết hợp sự lựa chọn kiểu tháp pháo bốn nòng của các nhà thiết kế Pháp trên các lớp thiết giáp hạm Normandie và _Lyon cùng cách sắp xếp toàn bộ dàn hỏa lực hướng ra phía trước của lớp _Nelson''. Nhưng một con tàu với tải trọng như vậy không có được một thiết kế cân bằng giữa cách sắp xếp dàn pháo chính, tốc độ khoảng 34-35 knot và vỏ giáp tương xứng, vì vậy kế hoạch này đã không thể xúc tiến việc đặt hàng một thiết giáp hạm với tải trọng mong muốn.

Mọi thứ đều thay đổi vào tháng 2 năm 1929, khi Hải quân Đức đặt lườn chiếc Deutschland, một kiểu tàu chiến mà người Đức xếp vào loại "tàu bọc thép" (tiếng Đức: Panzerschiff) có tải trọng 10.000 tấn, về mặt hình thức tuân thủ theo Hiệp ước Versailles, nhưng trong thực tế nặng hơn ít nhất 25%, nhưng điều này đã không được biết đến ngay vào lúc đó. Với hai tháp pháo 280 mm (11 inch) SK C/28 ba nòng và một tốc độ tối đa 28,5 knot, con tàu này có hỏa lực vượt trội hơn mọi chiếc tàu tuần dương hạng nặng, vốn chỉ trang bị pháo 203 mm (8 inch) nhằm tuân theo quy định của Hiệp ước Washington giới hạn cỡ nòng dàn pháo chính của tàu tuần dương, và nhanh hơn mọi thiết giáp hạm chỉ trừ ba chiếc tàu chiến-tuần dương nhanh nhất của Hải quân Hoàng gia Anh: HMS Hood, HMS Renown và HMS Repulse. Lớp Deutschland thường được các nước khác, trước tiên là bởi Hải quân Hoàng gia Anh, gọi là những "thiết giáp hạm bỏ túi", cho dù tên chính thức mà người Đức gọi chúng là những "tàu tuần dương bọc thép".

Sau Deutschland, người Đức tiếp tục mở rộng lớp tàu này khi tiếp tục đặt lườn Admiral Scheer vào tháng 6 năm 1931 và Admiral Graf Spee vào tháng 10 năm 1932.

Phản ứng của Bộ Hải quân Pháp là đưa ra thiết kế sơ thảo cho một lớp tàu sẽ vượt trội hơn những "thiết giáp hạm bỏ túi" của Đức về hỏa lực, vỏ giáp và tốc độ. Phó Đô đốc Violette nhanh chóng nhận ra rằng, với một tải trọng dưới 26.000 tấn, không thể nào tích hợp hai tháp pháo bốn nòng phía trước với cỡ nòng lớn hơn 305 mm, tốc độ gần 30 knot và vỏ giáp có khả năng chống lại đạn pháo 280 mm. Vì vậy đã khai sinh ra lớp Dunkerque với tải trọng 35.000 tấn. Chiếc Gneisenau được đặt lườn vào ngày 6 tháng 5 năm 1935, tiếp nối bởi chiếc Scharnhorst vào ngày 15 tháng 6 năm 1935. Chúng có trọng lượng rẽ nước nặng hơn lớp Dunkerque, vỏ giáp tốt hơn, và trang bị chín khẩu hải pháo 28 cm SK C/34, cùng cỡ với lớp Deutschland. Theo ý muốn của Adolf Hitler, một cỡ pháo nặng hơn đã từng được xem xét cho dàn pháo chính, vì lớp Dunkerque được trang bị cỡ pháo 330 mm; nhưng vào lúc những quyết định cuối cùng về thiết kế lớp tàu này được đưa ra, Đức đang đàm phán Thỏa thuận Hải quân Anh-Đức 1935, khi mà Chính phủ Anh khẳng định mong muốn giới hạn cỡ nòng pháo chính trên thiết giáp hạm. Vì vậy, một cách miễn cưỡng, kiểu hải pháo 28 cm SK C/34 cải tiến với nòng dài hơn, lưu tốc đầu đạn lớn hơn, nhưng có cùng cỡ nòng 280 mm đã được chọn.

Vì các nhà thiết kế Hải quân Pháp tin rằng vỏ giáp của lớp Dunkerque có thể chống lại đạn pháo 280 mm, họ đã không cần đến một lớp thiết giáp hạm nặng hơn sau đó, nếu như Benito Mussolini đã không tuyên bố vào ngày 26 tháng 5 năm 1934 quyết định chế tạo lớp thiết giáp hạm tải trọng 35.000 tấn, những chiếc thiết giáp hạm Ý đầu tiên kể từ Hiệp ước Hải quân Washington.

Thiết kế

Thiết kế của lớp Dunkerque rất sáng tạo, đáng kể nhất là toàn bộ dàn pháo chính được bố trí phía trước. Đây cũng là trường hợp lớp thiết giáp hạm Nelson của Hải quân Hoàng gia Anh, nhưng chúng có ba tháp pháo mang chín khẩu pháo, nên góc bắn của tháp pháo sau cùng bị giới hạn bởi tháp pháo trước mặt nó. Lớp Dunkerque sử dụng hai tháp pháo 330 mm bốn nòng cho phép một hỏa lực bắn ra phía trước không giới hạn. Do Hiệp ước Hải quân Washington giới hạn trọng lượng rẽ nước của những con tàu, sự sắp xếp tháp pháo bốn nòng có ưu điểm tiết kiệm được trọng lượng bọc thép cho tháp pháo so với bốn tháp pháo nòng đôi, trong khi có cùng một sức mạnh về hỏa lực. Khuyết điểm của nó là một phát đạn pháo may mắn bắn trúng duy nhất cũng đủ để loại khỏi vòng chiến một nửa hỏa lực dàn pháo chính của con tàu. Vì vậy các tháp pháo bốn nòng Pháp trên các lớp DunkerqueRichelieu được phân chia bên trong nhằm cô lập sự hư hỏng; và cũng nhằm tránh trường hợp một phát bắn trúng có thể gây hư hại cho cả hai tháp pháo, chúng được đặt cách nhau 27 m. Đây không phải là trường hợp các tháp pháo 14 inch bốn nòng trước và sau trên lớp thiết giáp hạm King George V của Anh Quốc, vốn được bố trí hoàn toàn độc lập với nhau.

Hai nòng pháo cùng cặp được bố trí gần với nhau đến mức, một hiệu ứng sóng dội xảy ra khi bắn đồng thời đưa đến sự phân tán điểm rơi đạn pháo quá mức,

Lần đầu tiên trên một thiết giáp hạm Pháp, dàn pháo hạng hai thuộc kiểu đa dụng có thể sử dụng để chống hạm lẫn phòng không tầm xa; với năm tháp pháo 130 mm gồm ba tháp pháo bốn nòng phía đuôi có cấu trúc hai cặp nòng pháo tương tự như cấu trúc tháp pháo 330 mm, và hai tháp pháo nòng đôi hầu như không che chắn bố trí hai bên cấu trúc thượng tầng giữa tàu. Tuy nhiên, những khẩu pháo hạng hai này có cỡ nòng quá nhỏ cho nhiệm vụ chống hạm, và hiệu quả khá kém trong vai trò hỏa lực phòng không đối với máy bay bay nhanh ở tầm gần, ví dụ như máy bay ném bom bổ nhào, do có tốc độ bắn khá chậm chỉ có 10 phát mỗi phút. Với chỉ năm tháp pháo phòng không 37 mm và một số súng máy 13,7 mm, những con tàu này thiếu sót một dàn hỏa lực nhẹ bắn nhanh mà sau này được tái trang bị cho lớp Richelieu.

Một tháp chỉ huy lớn được bố trí phía trước, lần đầu tiên được trang bị một thang nâng bên trong, bên trên được bố trí ba máy đo tầm xa trên cùng một trục, với trọng lượng nặng bên trên lên đến 85 tấn. Một tháp chỉ huy phụ với hai máy đo tầm xa bên trên được đặt giữa ống khói và các thiết bị máy bay phía sau. Thiết bị hỗ trợ máy bay bao gồm hầm chứa, máy phóng và cần cẩu, có khả năng phóng ba đến bốn thủy phi cơ.

Khi chạy thử máy ngoài biển, khói thoát ra từ ống khói đã ảnh hưởng đến hoạt động của máy đo tầm xa trên tháp chỉ huy phía sau, nên vào năm 1938, cả hai chiếc đều được bổ sung nắp ống khói, bị đặt cho biệt danh là "mũ quả dưa". Thực tế phục vụ trong chiến tranh cho thấy mũi tàu bị ướt nước và hư hại trong hoàn cảnh biển động nặng tại Bắc Đại Tây Dương vào mùa Đông. Lớp thiết giáp hạm Scharnhorst của Đức cũng mắc phải những vấn đề tương tự, nhưng chúng được tái trang bị sau đó với một "mũi tàu Đại Tây Dương" được gia cố. Lớp Dunkerque dường như được chế tạo với cấu trúc tương đối nhẹ, nên chúng chịu hư hại do ảnh hưởng của gió mạnh, khói, rung động và sức giật của chính những khẩu pháo 330 mm của nó; Đai giáp được thiết kế để chịu đựng đạn pháo 280 mm của Hải quân Đức.

Sau chiếc Dunkerque dẫn đầu, chiếc Strasbourg tiếp nối có thiết kế được nâng cấp, với những thay đổi nhỏ trong tháp phía trước tích hợp cả tháp chỉ huy lẫn cầu tàu, máy đo tầm xa được bố trí cao hơn, Sau chiến dịch này, những liều thuốc phóng đạn pháo dành cho Strasbourg tiếp tục được lưu giữ tại Dakar, chúng bị sử dụng nhầm cho thiết giáp hạm Richelieu trong Trận Dakar, khiến gây ra vụ nổ tháp pháo 380 mm trước phía trên của Richelieu.

Từ năm 1939, Dunkerque, Strasbourg, các tàu tuần dương và các tàu khu trục lớn của Pháp đã hình thành nên một lực lượng đặc nhiệm nhanh đặt tên là Lực lượng Bắn phá, đặt căn cứ tại Brest, với Dunkerque làm soái hạm. Tháng 12 năm 1939, Dunkerque tham gia vào việc vận chuyển sang Canada một phần số vàng dự trữ của Ngân hàng Pháp.

Thử thách chiến trận duy nhất dành cho DunkerqueStrasbourg là trong vụ tấn công tại cảng Mers-el-Kébir vào ngày 3 tháng 7 năm 1940, bởi Lực lượng H của Hải quân Hoàng gia Anh, bao gồm HMS Hood và các thiết giáp hạm HMS Revenge và HMS Valiant mà chúng vốn không được thiết kế để đối đầu. Trong khi chiếc siêu-dreadnought cũ Bretagne bị lật úp và chìm khiến gần 1.000 thủy thủ thiệt mạng. Strasbourg may mắn thoát khỏi các loạt đạn pháo của phía Anh, sự truy đuổi của HMS Hood cùng máy bay ném ngư lôi Fairey Swordfish của tàu sân bay HMS Ark Royal, nó cùng các tàu khu trục hộ tống đến được Toulon chiều tối ngày hôm sau. Dunkerque bị bắn trúng bốn phát đạn pháo hạng nặng: phát thứ nhất nảy tung trên nóc tháp pháo 330 mm phía trước, làm thiệt mạng toàn bộ người trong nữa tháp pháo bên phải; phát thứ hai gây hư hại thiết bị máy bay; hai phát cuối làm hỏng nồi hơi và phá hủy máy phát điện, nên nó phải neo đậu lại phía bên kia vũng biển Mers-el-Kebir.

Những hư hại này không đến mức quá nghiêm trọng như lo sợ, vì phía Anh đã ngừng bắn sau không đầy 15 phút vì đô đốc Pháp ra hiệu cho biết ông đã ra lệnh ngừng bắn. Nên Đô đốc Esteva, Tổng tư lệnh Hải quân Pháp tại Bắc Phi, báo cáo bằng vô tuyến về Bộ Hải quân Pháp về một tình trạng "hư hỏng trung bình" của con tàu. Biết được điều này, Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho Đô đốc Sommerville, Tư lệnh Lực lượng H, tiếp tục tấn công để loại bỏ hoàn toàn Dunkerque khỏi vòng chiến đấu.

Dunkerque mắc cạn tại bờ biển ngay phía trước một ngôi làng, khiến Đô đốc Sommerville lo ngại việc hỏa lực hải pháo có thể gây thương vong nặng nề cho thường dân; ông ra lệnh ngừng bắn, và vào ngày 6 tháng 7 tiếp tục tấn công nó bằng máy bay ném ngư lôi xuất phát từ HMS Ark Royal. Một quả ngư lôi đã đánh trúng một tàu tuần tra nhỏ mang theo mìn sâu đang cặp mạn chiếc Dunkerque. Hậu quả của vụ nổ đã làm mở toang một lỗ hổng lớn bên lườn chiếc thiết giáp hạm, làm thiệt mạng hơn 200 thủy thủ, khiến nó chìm tại vùng nước nông.

Vào năm 1941, được trang bị những kiểu radar đời đầu của Pháp, Strasbourg trở thành soái hạm của cái gọi là Lực lượng Biển khơi, nhưng hầu như không bao giờ đi ra biển. Được sửa chữa sơ sài, Dunkerque quay trở lại Toulon bằng chính động lực của nó vào tháng 2 năm 1942, nơi nó được đưa vào ụ tàu để tiếp tục sửa chữa. Cả hai chiếc, tiếp tục dưới quyền kiểm soát của phe Vichy, bị đánh đắm tại Toulon vào ngày 27 tháng 11 năm 1942; khi quân Đức tìm cách chiếm lấy Hạm đội Pháp sau khi Lục quân Đức chiếm đóng Vùng tự do của Pháp nhằm trả đũa việc Đồng Minh đổ bộ thành công lên Bắc Phi.

Strasbourg được người Ý trục vớt, bị giải giáp một phần và được Đức trao trả cho phe Vichy Pháp, nhưng lại bị máy bay ném bom Không lực Mỹ đánh chìm năm 1944. Dunkerque bị bỏ xó trong một tình trạng tồi tệ, và bị tháo dỡ sau khi chiến tranh kết thúc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**_Dunkerque_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Strasbourg_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ hai trong lớp _Dunkerque_ được đóng mới kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**_Richelieu_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó đã phục vụ trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai theo
**_Jean Bart_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp thuộc lớp _Richelieu_. Được đặt tên theo nhà hàng hải và hải quân thế kỷ 17 Jean Bart, nó chỉ mới hoàn tất được
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Béarn_** là một tàu sân bay độc đáo từng phục vụ Hải quân Pháp (Marine nationale) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và sau đó. Sự lạc hậu vào lúc chiến tranh nổ ra
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**Lớp tàu khu trục _Mogador**_ bao gồm hai tàu khu trục lớn () được Hải quân Pháp đặt lườn vào năm 1935 và đưa ra hoạt động vào năm 1939. Chúng là những tàu khu
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**_Gloire_** (tiếng Pháp: vinh quang) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong
**_Montcalm_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt
**_Georges Leygues_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_La Galissonnière_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu của lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai.
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có