✨Nelson (lớp thiết giáp hạm)

Nelson (lớp thiết giáp hạm)

Nelson là tên của một lớp thiết giáp hạm gồm hai chiếc: NelsonRodney được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia không lâu sau khi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 có hiệu lực, và tuân thủ chặt chẽ theo những giới hạn được quy định bởi Hiệp ước này. Chúng là những thiết giáp hạm Anh duy nhất được chế tạo giữa lớp Revenge (được đặt hàng năm 1913) và lớp King George V (được đặt hàng năm 1936).

Hai chiếc trong lớp được đặt tên theo hai vị đô đốc Anh nổi tiếng: George Brydges Rodney, người chỉ huy Hải quân Hoàng gia Anh giành chiến thắng trong trận mũi St. Vincent (trong khuôn khổ Chiến tranh Cách mạng Mỹ) trước Tây Ban Nha và Horatio Nelson người chỉ huy Hải quân Hoàng gia Anh giành chiến thắng trong các trận Nile và Trafalgar.

Để phù hợp với những hạn chế do Hiệp ước Washington đặt ra, những con tàu này có một thiết kế khác thường với nhiều đặc tính mới lạ. Chúng thường được xem là những thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên. Thiết kế của lớp Nelson khá độc đáo đối với truyền thống chế tạo thiết giáp hạm của Anh. Chúng là lớp thiết giáp hạm duy nhất của Anh được trang bị pháo 406 mm (16 inch) trên 3 tháp pháo, mỗi tháp pháo có 3 khẩu pháo tác chiến độc lập với nhau, và tất cả các tháp pháo này đều được bố trí ở phía trước tháp chỉ huy - đặc điểm dễ nhận biết nhất của lớp Nelson so với các lớp thiết giáp hạm khác của Anh.

Bối cảnh lịch sử

Trận Jutland đã cho Hải quân Hoàng gia Anh thấy rõ giá trị của hỏa lực và sự bảo vệ bằng vỏ giáp so với tốc độ và sự cơ động. Vì vậy, thế hệ tàu chiến tiếp theo của Anh đã được vận dụng và tích hợp triệt để những bài học này. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, Bộ Hải quân Anh đã lên kế hoạch chế tạo và đưa vào sử dụng những chiếc tàu chiến-tuần dương và thiết giáp hạm mới có kích thước lớn hơn, bọc giáp dày hơn và trang bị hỏa lực mạnh hơn nhiều so với mọi lớp tàu chiến trước đó của họ. Lớp tàu chiến-tuần dương G3 sẽ được trang bị 9 khẩu pháo 406 mm (16 inch); và lớp thiết giáp hạm N3 sẽ được trang bị 9 khẩu pháo 457 mm (18 inch). Chúng được dự định là những tàu chiến mặt nước mạnh nhất thế giới sau khi được hoàn thành. Hải quân Hoàng gia Anh có kế hoạch duy trì lực lượng hải quân khổng lồ để thể hiện sự thống trị tuyệt đối trên biển trong cuộc chạy đua vũ trang đang bùng phát giữa các cường quốc thắng trận sau Thế chiến 1, bất chấp những thiết kế tàu chiến lớn tương đương đang được Nhật Bản và Hoa Kỳ phát triển.

Việc phát triển đột ngột bị cắt giảm Hiệp ước Hải quân Washington, và nó đã khiến cho cuộc chạy đua vũ trang hải quân giữa các nước này bị tạm dừng. Việc chế tạo 4 chiếc tàu chiến-tuần dương lớp G3 được đặt hàng trước đó đều đã bị hủy bỏ; một số vật liệu, chi tiết cần thiết đã được giữ lại và sử dụng cho NelsonRodney. Hiệp ước đã giới hạn trọng tải choán nước của tất cả các thiết giáp hạm thuộc sở hữu của mọi quốc gia được đóng mới trong giai đoạn này ở mức 35.000 tấn Anh và dàn pháo chính của chúng có cỡ nòng không được vượt quá 406 mm (16 inch). Người Anh đã thành công trong việc đảm bảo là định nghĩa về trọng tải choán nước tối đa – mệnh danh "trọng tải choán nước tiêu chuẩn" – không bao gồm nhiên liệu và nước cấp cho nồi hơi. Họ đã tranh luận về chiến lược trải rộng của Đế quốc Anh, điều đó có nghĩa là những tàu chiến của họ phải mang theo nhiều nhiên liệu và nước hơn, và chúng đương nhiên không phải chịu thiệt hại hay bị trừng phạt bởi Hiệp ước Washington so với những tàu chiến của Pháp, Nhật Bản hay Ý, vốn hoạt động gần các căn cứ quê hương của chúng hơn nhiều. Kết quả là, các phình chống ngư lôi đổ đầy nước bên trong đã được thêm vào. Điều này không gây tăng thêm trọng lượng "khô" (tiêu chuẩn) của tàu và do đó không vượt quá giới hạn của Hiệp ước. do "bị cắt giảm bởi Washington". Nhu cầu trong việc giới hạn trọng tải choán nước đã dẫn đến một thiết kế tàu chiến mới được rút ra từ thiết kế G3 và N3 trước đó. Để giảm trọng lượng của vỏ giáp, các tháp pháo chính của lớp Nelson đều được bố trí toàn bộ phía trước cấu trúc thượng tầng nhằm rút ngắn chiều dài thân tàu. Tháp pháo 'B' được bố trí bên trên tháp pháo 'A', còn tháp pháo 'X' được bố trí trên boong tàu phía sau tháp 'B' nên nó không thể bắn trực tiếp ra trước mũi hay sau đuôi của con tàu. Dàn pháo hạng hai được bố trí trên các tháp súng kín nước và được điều khiển ngay trên sàn tàu chính và được nhóm về phía sau – một yếu tố cải tiến khác vay mượn từ thiết kế của G3 và N3.

Một lời đồn đại được lưu truyền khá lâu là những con tàu này không thể bắn toàn bộ qua mạn (tất cả các khẩu pháo chính) vì sẽ gây tổn hại cho cấu trúc của sàn tàu. Điều này đã được chính thức phủ nhận trong hoạt động của Rodney khi đánh chìm thiết giáp hạm Đức Bismarck lúc mà tất cả các khẩu pháo đã bắn qua mạn mà không gây hiệu ứng ngược nào.

Lịch sử hoạt động

Được đưa vào hoạt động trong những năm 1927-1930, cả hai chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp Nelson đều phục vụ rộng rãi tại Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Rodney trở nên nổi tiếng do vai trò nổi bật trong việc đánh chìm thiết giáp hạm Đức Bismarck vào tháng 5 năm 1941. Cả hai đều sống sót qua cuộc chiến và bị tháo dỡ sau đó không lâu.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Nelson_** là tên của một lớp thiết giáp hạm gồm hai chiếc: _Nelson_ và _Rodney_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia không lâu sau khi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 có
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp thiết giáp hạm _Satsuma**_ (薩摩型戦艦 - Satsuma-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Satsuma_ là những chiếc thiết
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**_Dunkerque_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu cho một lớp mới được đóng kể từ sau Hiệp ước Hải
**_Strasbourg_** là một thiết giáp hạm được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ hai trong lớp _Dunkerque_ được đóng mới kể từ sau Hiệp ước Hải
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**_Satsuma_** () là một thiết giáp hạm thuộc thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế và chế tạo ngay tại Nhật Bản bởi xưởng hải quân Yokosuka. Tên của
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
**HMS _Nelson_ (28)** là một trong số hai chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp _Nelson_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc giữa hai cuộc thế chiến. Tên của nó được đặt
**HMS _Dreadnought**_ là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vốn đã làm cuộc cách mạng về sức mạnh hải quân. Việc đưa nó vào hoạt động năm 1906 đánh dấu
**SMS _Baden**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào tháng 10 năm 1915 và hoàn
**HMS _Rodney**_ (số hiệu: 29) là một trong hai thiết giáp hạm lớp _Nelson_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào giữa những năm 1920. Tên của nó được đặt nhằm tôn vinh
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Nelson** có thể đề cập đến: *Horatio Nelson *Nelson (lớp thiết giáp hạm) *Nelson Mandela
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
Ba tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt tên **HMS _Nelson**_ nhằm tôn vinh Đô đốc Horatio Nelson: * HMS _Nelson_ (1814) là một tàu chiến tuyến hạng nhất 120 khẩu
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**HMS _Euryalus_ (42)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**HMS _Dragon_ (D46)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Danae_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển cho Hải quân Ba Lan
**HMS _Hermione_ (74)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã bị tàu
**HMS _Ameer_ (D01)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Baffins_ (CVE-35)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-35** và sau đó là **ACV-35**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Derwent_ (L83)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1941 và nhập biên chế năm 1942. Nó đã hoạt
**HMS _Argonaut_ (61)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
Vào cuối tháng năm đầu tháng 6 năm 1942 trong cuộc chiến Thái Bình Dương, các tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mở nhiều cuộc **tấn công vào thành phố Sydney
**HMS _Indomitable_ (92)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Illustrious_ cải tiến. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Ấn
**William McKinley, Jr.** (29 tháng 1 năm 1843 - 14 tháng 9 năm 1901) là Tổng thống thứ 25 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 1897 cho đến khi ông bị ám sát vào
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt tên **HMS _Rodney**_, trong đó ít nhất sáu chiếc được đặt nhằm tôn vinh Đô đốc George Brydges Rodney: * HMS _Rodney_ (1759)
Ba tàu chiến cùng một căn cứ trên bờ của Hải quân Hoàng gia Anh từng mang cái tên **HMS _Collingwood**_, đặt theo tên Đô đốc Cuthbert Collingwood (1748-1810), cấp phó của Đô đốc Horatio
**_U-56_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
Bảy tàu chiến của Hải quân Pháp từng được đặt cái tên **_Suffren_** nhằm vinh danh vị Đô đốc vào Thế kỷ 18 Pierre André de Suffren: * _Suffren_ (1791-1794) là một tàu chiến tuyến