Lớp _Lion_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, và không bao giờ được hoàn tất. Chúng là những thiết kế được cải tiến dựa trên lớp King George V và dự định để thay thế cho lớp Revenge thời Đệ Nhất thế chiến. Lớp Revenge đã được chế tạo trong tinh thần tiết kiệm, nên chỉ đạt tốc độ tối đa 39 km/h (21 knot), và khó có thể nâng cấp.
Thiết kế mở rộng
Sự chọn lựa cỡ pháo 355 mm (14 inch) và sự phối hợp các tháp pháo nòng đôi với tháp pháo bốn nòng cho dàn pháo chính của lớp King George V là do phải tuân thủ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London thứ hai, vốn giới hạn trọng lượng rẽ nước của thiết giáp hạm ở mức 35.000 tấn và cỡ nòng 355 mm (14 inch) cho dàn pháo chính. Lớp Lion được phép vận dụng một "điều khoản leo thang" của hiệp ước, cho phép tải trọng 45.000 tấn và cỡ pháo 406 mm (16 inch). Chúng sẽ có trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn trong khoảng 40.500 đến 42.500 tấn và sẽ mang chín khẩu pháo 406 mm (16 inch) trên ba tháp pháo ba nòng, giống như trên lớp Nelson vào năm 1925, cho dù cả súng lẫn tháp pháo đều là những thiết kế hoàn toàn mới.
Kiểu dáng của những chiếc thuộc lớp Lion sẽ gần giống với những chiếc King George V, nhưng với một mũi tàu dạng "transom" để cải thiện hiệu quả đi biển. Dàn hỏa lực hạng hai cũng tương tự như lớp King George V, với mười sáu khẩu pháo 133 mm (5,25 inch) bố trí trên tám tháp súng nòng đôi, sắp xếp thành cặp bắn thượng tầng ở mỗi bên mạn tàu trước và sau chéo qua máy phóng máy bay. Lớp Lion sẽ là những chiếc tương đương với lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ, cả hai đều không còn bị ràng buộc bởi những hạn chế của những hiệp ước hải quân trước đó (trong khi những chiếc King George V trong khuôn khổ hiệp ước tương ứng với lớp North Carolina).
Chế tạo
Bốn chiếc thiết giáp hạm đã được lên kế hoạch. Hai chiếc đầu tiên, Lion và Temeraire, được đặt lườn vào giữa năm 1939. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra cuối năm đó, công việc chế tạo chúng trước tiên bị tạm ngừng do việc suy đoán là những chiếc Lion khó có thể hoàn thành trước khi chiến tranh kết thúc, và do đó chúng là những sự đầu tư đầy nghi vấn. Sau một số cân nhắc, việc chế tạo hai con tàu bị hủy bỏ vào tháng 10 năm 1940 nhằm cho phép nền công nghiệp đóng tàu có thể tập trung vào những tàu chiến quan trọng hơn như là tàu hộ tống. Hai lườn tàu đã hoàn tất một phần được cho tháo dỡ trong những năm 1942–1943.
Những suy nghĩ nghiêm túc được đặt ra ngay sau khi chiến tranh kết thúc để tái tục việc chế tạo ít nhất một chiếc Lion theo một thiết kế mới. Tuy nhiên các đề nghị này đều không khả thi do tình hình tài chính khó khăn của Anh sau chiến tranh, cũng như sự nhận thức rằng để có sự bảo vệ đủ chống đỡ các cuộc không kích, lượng vỏ giáp sàn tàu mà nó mang theo sẽ phải rất nặng.
Cuối cùng chỉ có hai chiếc thiết giáp hạm được hoàn tất sau khi Thế Chiến II kết thúc: chiếc Vanguard của Anh và Jean Bart của Pháp. Việc chế tạo Jean Bart đã bị ngắt quãng do việc Pháp thua trận vào năm 1940, trong khi HMS Vanguard được thiết kế trong những năm chiến tranh nhằm tận dụng bốn tháp pháo dư thừa, vốn được tháo dỡ từ hai chiếc tàu tuần dương lớn nhẹ Glorious khi cải biến chúng thành những tàu sân bay trong những năm 1920.
Những chiếc trong lớp
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm _Revenge**_ bao gồm năm thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, được đặt hàng vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp mở màn, và
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Kongō**_ (tiếng Nhật: 金剛型巡洋戦艦 - Kongō-gata junyōsenkan) là một lớp gồm bốn chiếc tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được nâng cấp đáng kể thành những
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**HMS _Audacious**_ là một thiết giáp hạm dreadnought thuộc lớp _King George V_ thứ nhất được Hải quân Hoàng gia chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó bị đánh chìm do
**HMS _Revenge_ (06)** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Anh Quốc _Revenge_; là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này. Nó từng tham gia trận
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**HMS _Vanguard_ (23)** là một thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai và chỉ được đưa vào
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
Mười tám tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Lion**_, theo tên sư tử, vốn cũng là một hình tượng biểu trưng cho Anh Quốc và Scotland: *
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Invincible**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**HMS _Inflexible**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Indefatigable**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Indefatigable_, một phiên bản mở rộng so với lớp _Invincible_ dẫn trước, được cải thiện
Mười tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng được đặt cái tên **HMS _Conqueror**_ (Kẻ chinh phục): * HMS _Conqueror_ (1745) là một tàu chiến 8 khẩu pháo do chiếc _Lowestoffe_ chiếm
**HMS _Virago_ (R75/F76)** là một tàu khu trục lớp V được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Berkeley_ (L17)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**HMS _Queen Mary**_ là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Thiết kế của
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
Tám tàu chiến và một cơ sở trên bờ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng được đặt cái tên **HMS _Thunderer**_: * HMS _Thunderer_ (1760) là một tàu chiến tuyến hạng ba 74
Năm tàu chiến và hai căn cứ trên bờ của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Temeraire**_: * là một tàu chiến tuyến hạng ba 74 khẩu pháo chiếm được
là một chương trình truyền hình tokusatsu Nhật Bản. Đó là mục thứ năm trong Kamen Rider, chương trình đã được phát sóng trên đài TBS và MBS từ ngày 5 tháng 4 năm
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**_Warcraft III: The Frozen Throne _** Là một tựa game 3D, theo phong cách chiến thuật thời gian thực do Blizzard Entertainment phát triển trên các hệ điều hành Microsoft Windows, Mac OS. Đây là