Lớp thiết giáp hạm _Florida_ của Hải quân Hoa Kỳ bao gồm hai chiếc: và . Lần lượt được hạ thủy vào các năm 1910 và 1909 tương ứng và được đưa ra hoạt động vào năm 1911, chúng hơi lớn hơn so với lớp Delaware dẫn trước nhưng rất tương đồng ở các mặt khác. Đây là lớp thiết giáp hạm Hoa Kỳ đầu tiên được trang bị toàn bộ với turbine hơi nước, vì trên lớp Delaware dẫn trước, chỉ có một chiếc được trang bị turbine hơi nước nhằm mục đích thử nghiệm.
Cả hai chiếc đều đã tham gia trận Veracruz thứ hai, cho đổ bộ phân đội thủy quân lục chiến của chúng lên bờ như một phần của chiến dịch. Sau khi Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất vào năm 1917, cả hai đều đã được phái sang Châu Âu. Florida được bố trí vào thành phần Hạm đội Grand Anh Quốc và đặt căn cứ tại Scapa Flow; vào tháng 12 năm 1918 nó đã hộ tống Tổng thống Woodrow Wilson đến Pháp đàm phán hòa bình. Utah được giao vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải; nó đặt căn cứ tại Ireland với nhiệm vụ bảo vệ các tàu vận tải khi chúng tiếp cận lục địa Châu Âu.
Cả hai đều đã được giữ lại sau Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 và được hiện đại hóa đáng kể, bao gồm việc trang bị bầu chống ngư lôi và nồi hơi đốt dầu cùng nhiều cải tiến khác. Tuy nhiên chúng đã bị giải giới theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London năm 1930. Florida bị tháo dỡ, còn Utah phải tháo dỡ vũ khí và cải biến thành tàu mục tiêu điều khiển bằng vô tuyến. Nó tiếp tục phục vụ trong vai trò sau này cho đến khi bị Hải quân Nhật Bản đánh chìm trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Lườn tàu của nó đã không được trục vớt lên, và nó tiếp tục nằm dưới đáy cảng như một đài tưởng niệm chiến tranh.
Thiết kế
Florida là lớp thứ ba trong số 11 lớp tàu chiến chủ lực được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo từ năm 1906 đến năm 1919, với tổng cộng 29 thiết giáp hạm và 6 tàu chiến-tuần dương. Thực tế toàn bộ hàng chiến trận Hoa Kỳ đều được thiết kế từ kinh nghiệm thời kỳ tiền-dreadnought cùng sự quan sát các thiết kế nước ngoài; vì chưa có chiếc dreadnought Hoa Kỳ nào được đưa ra hoạt động vào lúc Florida được thiết kế, tất cả đều đang trong một giai đoạn chế tạo hay thiết kế nào đó. Thiết kế tàu chiến chủ lực của Hoa Kỳ còn bị ảnh hưởng lớn từ những cuộc tập trận giả do Trường Chiến tranh Hải quân của Hải quân Mỹ tiến hành. Đại tá Hải quân William Sims đã đi tiên phong trong một hoạt động đề xuất những thiết kế tàu chiến cho Ủy ban Tướng lĩnh.
Những con tàu này là một sự cải tiến so với lớp Delaware dẫn trước, có phòng động cơ được mở rộng để trang bị bốn turbine hơi nước Curtis hay Parsons và một dàn pháo hạng hai được bố trí lại. Các con tàu trang bị kiểu pháo /51 caliber như là pháo hạng hai trong các tháp pháo ụ. Nhìn chung, các con tàu được bảo vệ tốt hơn so với những tàu chiến Anh tương ứng cùng thời, cho dù chúng được cải biến rộng rãi trong những năm giữa hai cuộc thế chiến.
Các đặc tính chung
Những chiếc trong lớp Florida có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung là ; chúng có mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Các con tàu có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn là và lên đến khi đầy tải, Những chiếc trong lớp Florida có thủy thủ đoàn bao gồm 1.001 sĩ quan và thủy thủ.
Florida được trang bị thử nghiệm một cầu tàu lớn hơn tiêu chuẩn vào lúc đó, để có thể chứa được cả nhân sự chỉ huy lẫn kiểm soát hỏa lực dưới sự bảo vệ của vỏ giáp, trong khi Utah có một tháp kiểm soát hỏa lực được bọc giáp nặng đặt bên trên một cầu tàu tiêu chuẩn. Cách bố trí của Florida tỏ ra rất thành công, đến mức khi một tháp kiểm soát hỏa lực bọc giáp lớn hơn và một cầu tàu tiêu chuẩn được đề xuất cho lớp Nevada, đề nghị này bị loại bỏ để áp dụng một cầu tàu rộng rãi như kiểu của Florida.
Cả hai con tàu đều được hiện đại hóa vào những năm 1925-1927. Những cải tiến bao gồm việc bổ sung bầu chống ngư lôi, vốn được thiết kế để tăng cường chịu đựng những hư hại dưới nước; điều này đã làm gia tăng chiều rộng mạn tàu lên đến . Tuy nhiên, cách bố trí phòng nồi hơi và động cơ của chúng vẫn giữ nguyên như lớp Delaware dẫn trước, khi phòng động cơ đặt giữa các tháp pháo chính phía sau và các ống dẫn hơi nước chạy bên dưới tháp pháo bắn thượng tầng phía sau. Các con tàu có tầm xa hoạt động khi di chuyển ở tốc độ đường trường .
Trong đợt tái cấu trúc vào những năm 1920, những nồi hơi đốt than của lớp Florida được thay thế bằng bốn nồi hơi White-Forster đốt dầu. Số lượng nồi hơi giảm bớt cho phép hai ống khói của chúng được nhập chung thành một ống khói lớn.
Vũ khí
thumb|Nhìn ngang bên mạn trái của lớp Florida, các khẩu pháo chính được bố trí hệt như trên lớp Delaware|alt=left side view of a large ship steaming through the water, with two boxy gun turrets in front and three in back, each with two guns.
Dàn pháo chính
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Florida**_ của Hải quân Hoa Kỳ bao gồm hai chiếc: và . Lần lượt được hạ thủy vào các năm 1910 và 1909 tương ứng và được đưa ra hoạt động
**USS _Florida (BB-30)**_ là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong số hai chiếc thuộc lớp _Florida_ vốn bao gồm cả chiếc _Utah_. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Iowa_ (BB-61)** (biệt danh "The Big Stick") là thiết giáp hạm đầu tiên của lớp _thiết giáp hạm Iowa_ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**USS _Wyoming_ (BB-32)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong số hai chiếc thuộc lớp _Wyoming_ vốn bao gồm cả chiếc _Arkansas_. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Utah_ (BB-31)** là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
Tàu ngầm lớp **_Ohio_** là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Mỹ, bao gồm 14 tàu mang tên lửa liên lục địa (SSBN) và bốn
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _The Sullivans_ (DD-537)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Wickes_ (DD-75)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; sau đó được chuyển cho
**USS _Zellars_ (DD-777)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Willmarth_ (DE-638)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Tuscaloosa_ (CA-37)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, tên của nó được đặt theo thành phố Tuscaloosa thuộc tiểu bang Alabama. Trong Chiến tranh
**USS _Thorn_ (DD-647)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Buchanan_ (DD-131)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó được chuyển cho Hải quân Hoàng Gia
**USS _Hollis_ (DE-794/APD-86)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Trung úy Hải quân
**USS _Willard Keith_ (DD-775)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**USS _Wadleigh_ (DD-689)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Waterman_ (DE-740)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Terry_ (DD-513)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Heermann_ (DD-532)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Thomas J. Gary_ (DE-326/DER-326)**, nguyên mang tên **_Gary_** trước ngày 1 tháng 1, 1945, là một tàu hộ tống khu trục lớp _Edsall_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**USS _Robinson_ (DD-562)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Ault_ (DD-698)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Sterett_ (DD-407)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Patterson_ (DD-392)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Wadsworth_ (DD-516)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Portland_ (CL/CA–33)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc . Nó là chiếc tàu chiến đầu
**USS _Twiggs_ (DD–127)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh trong
**USS _Hovey_ (DD-208/DMS-11)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _Tollberg_ (APD-103)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-593**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa
**HMS _Hereward_ (H93)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, và đã
**USS _Laffey_ (DD-724)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Beverly W. Reid_ (APD-119/LPR-119)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-722**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải
**USS _Murray_ (DD-576/DDE-576)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Thomas E. Fraser_ (DD-736/DM-24)** là một tàu khu trục rải mìn lớp _Robert H. Smith_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo