✨Iowa (lớp thiết giáp hạm)

Iowa (lớp thiết giáp hạm)

Thiết giáp hạm lớp _Iowa_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để đối phó những tàu chiến chủ lực nhanh, như là lớp tàu chiến-tuần dương Kongō của Nhật Bản, đồng thời cũng có thể phục vụ trong hàng chiến trận truyền thống cùng những thiết giáp hạm chậm hơn, hoạt động như hai cánh nhanh của hàng chiến trận. Lớp Iowa được thiết kế để tuân thủ "điều khoản leo thang" của Hiệp ước hải quân London thứ hai, giới hạn trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ở mức . Bốn chiếc, , , và , đã hoàn tất; hai chiếc khác, và , đã được đặt lườn nhưng bị hủy bỏ tương ứng vào các năm 1945 và 1958; cả hai lườn tàu bị tháo dỡ vào những năm 1958–1959.

Bốn thiết giáp hạm lớp Iowa là những thiết giáp hạm cuối cùng trong biên chế Hải quân Mỹ; những thiết giáp hạm cũ hơn đều được xuất biên chế vào năm 1947 và rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào năm 1963. Từ giữa những năm 1940 cho đếu đầu thập niên 1990, những thiết giáp hạm lớp Iowa đã tham gia bốn cuộc chiến tranh lớn của Hoa Kỳ. Tại mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng chủ yếu đóng vai trò tàu hộ tống nhanh cho các tàu sân bay nhanh thuộc lớp Essex, và nả pháo xuống các vị trí của quân Nhật. Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, những chiếc thiết giáp hạm đã hỗ trợ hỏa lực hải pháo cho lực lượng Liên Hợp Quốc chống lại Bắc Triều Tiên. Đến năm 1968, New Jersey đã nả pháo xuống các mục tiêu của Việt Cộng gần khu phi quân sự trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Cả bốn chiếc đầu được huy động trở lại và hiện đại hóa, được trang bị tên lửa vào những năm 1980 như một phần của chương trình 600 tàu chiến Hải quân. Trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991, MissouriWisconsin đã nã pháo và tên lửa xuống các mục tiêu tại Iraq.

Do chi phí tốn kém để duy trì, chúng được cho xuất biên chế vào đầu những năm 1990 khi cuộc Chiến tranh Lạnh đi đến hồi kết thúc. Cả bốn chiếc thiết giáp hạm thoạt tiên được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân; tuy nhiên, Quốc hội Mỹ buộc Hải quân phải duy trì hai chiếc trên cơ sở lực lượng hỗ trợ hải pháo không đầy đủ trong các chiến dịch đổ bộ. Điều này đã dẫn đến sự tranh luận kéo dài về vai trò của thiết giáp hạm trong hải quân hiện đại. Cuối cùng cả bốn chiếc đều được rút khỏi đăng bạ và sẵn sàng để tặng cho các tổ chức phi lợi nhuận. Sau khi Iowa được chuyển giao năm 2012, cả bốn chiếc hiện là những tàu bảo tàng trên khắp Hoa Kỳ.

Bối cảnh

Sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hải quân nhiều nước, bao gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Nhật Bản, tiếp tục mở rộng chương trình đóng tàu hải quân vốn đã bắt đầu từ trước cuộc xung đột. Chi phí khổng lồ liên quan đến những chương trình này tạo áp lực lên các nhà lãnh đạo chính phủ cần có một hội nghị giải trừ vũ khí. Vào ngày 8 tháng 7, 1921, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Charles Evans Hughes đã mời đại biểu các cường quốc hải quân vào lúc đó: Pháp, Ý, Nhật Bản và Anh, đến Washington, D.C. để thảo luận về việc kết thúc chạy đưa vũ trang hải quân. Hội nghị Hải quân Washington diễn ra sau đó đã đưa đến Hiệp ước Hải quân Washington; và trong các điểm được thỏa thuận, nó giới hạn mọi thiết giáp hạm trong tương lai một trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 35.000 tấn và cỡ nòng pháo lớn nhất là 16 inch. Năm nước ký kết cũng đạt được thỏa thuận là không nước nào sẽ đóng mới tàu chủ lực trong mười năm tiếp theo, và không thay thế mọi con tàu sau hiệp ước cho đến khi con tàu đạt ít nhất 20 năm tuổi. Hiệp ước hải quân London thứ hai, cho dù thay thế những thỏa thuận năm 1922, dù sao vẫn giữ lại nhiều giới hạn tương tự, bao gồm giới hạn trọng lượng 35.000 tấn. Yêu cầu cuối cùng này đã ảnh hưởng đặc biệt đến thiết kế các lớp thiết giáp hạm trước lớp Iowa: lớp North Carolina và lớp South Dakota.

Một điều khoản, được gọi là "điều khoản leo thang" trong Hiệp ước hải quân London thứ hai, cho phép các con tàu được trang bị pháo 16-inch (406 mm) thay vì 14-inch (356 mm). Điều này đã mang lại lợi ích cho các lớp North Carolina, South DakotaIowa; và Iowa còn được áp dụng một điều khoản khác, "điều khoản leo thang trọng lượng". Từ tháng 11, 1937, tin tức tình báo đã biết đến những chiếc "siêu-thiết giáp hạm" đang được Nhật Bản chế tạo, cho dù đặc tính kỹ thuật ước tính rất khác nhau phụ thuộc vào nguồn tin thu được. Sáu tháng sau, 31 tháng 3, 1938, Hoa Kỳ, Anh và Pháp chấp thuận áp dụng mức giới hạn tải trọng mới 45.000 tấn.

Thiết kế

Thiết giáp hạm 27 knot và "A"-"C"

Sau mọi vấn đề về chính trị như trên, Hải quân được phép tiếp tục nghiên cứu thiết kế một kiểu thiết giáp hạm trọng lượng 45.000 tấn, và những nghiên cứu sơ khởi bắt đầu vào đầu năm 1938 dưới sự chỉ đạo của Đô đốc Thomas C. Hart, người đứng đầu Ủy ban Tướng lĩnh. Thiết kế đầu tiên là một phiên bản mở rộng dựa trên lớp South Dakota, mang mười hai khẩu 16-inch/45 caliber Mark 6 hoặc chín khẩu (phương án sau này bị hủy bỏ sau thỏa thuận ngày 31 tháng 3 giữa Hoa Kỳ, Anh và Pháp), có thêm vỏ giáp và một hệ thống động lực đủ mạnh cho phép nó đạt bằng tốc độ của lớp South Dakota, . Những nghiên cứu này không có ảnh hưởng gì đến thiết kế của lớp Iowa sau này, nhưng được phát triển song song như một kiểu thiết giáp hạm "tiêu chuẩn" trong tương lai, mà cuối cùng trở thành thiết kế của lớp Montana bị hủy bỏ.

Một thiết kế khác, do Chi nhánh Thiết kế thuộc Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa theo đuổi, là một kiểu tàu "diệt tàu tuần dương". Được khởi đầu vào ngày 17 tháng 1, 1938 dưới sự chỉ đạo của Đại tá Hải quân A. J. Chantry, nhóm này đề xuất một thiết kế 12 pháo 16-inch và 20 pháo 5-inch, có khả năng băng qua kênh đào Panama (chuẩn Panamax) nhưng lại có trọng lượng không giới hạn, tốc độ tối đa , và tầm xa hoạt động khi di chuyển ở tốc độ đường trường . Các đặc tính này đưa trọng lượng con tàu lên đến , nhưng Chantry tin rằng có thêm những tính năng khác ở kích cỡ lớn như thế. Do trọng lượng lớn hơn hầu hết những thiết giáp hạm khác, vỏ giáp của nó chỉ đủ bảo vệ chống lại pháo trên những tàu tuần dương hạng nặng.

Ba phương án cải tiến "A", "B" và "C" được thiết kế vào cuối tháng 1. Mớn nước được tăng thêm chủ yếu để tăng cường cho vỏ giáp, và thay thế 12 khẩu pháo cho dàn pháo hạng hai là những điểm chung cho cả ba thiết kế này. "A" là kiểu lớn nhất với trọng lượng , và là kiểu duy nhất giữ lại 12 khẩu pháo 16-inch trên bốn tháp pháo ba nòng; nó đòi hỏi một hệ thống động lực công suất để đạt được tốc độ . "B" là kiểu nhỏ nhất với trọng lượng ; và giống như "A" nó sẽ có tốc độ tối đa 32,5 knot nhưng chỉ yêu cầu công suất . "B" được trang bị chín khẩu pháo 16-inch trên ba tháp pháo ba nòng. "C" có thiết kế tương tự, nhưng tăng công suất hệ thống động lực lên đến để đạt được tốc độ 35 knot như yêu cầu ban đầu. Trọng lượng cần thiết và một đai giáp dài hơn ( so với của "B") khiến nó có trọng lượng .

Thiết giáp hạm nhanh

Vào tháng 3, 1938, Ủy ban Tướng lĩnh thuận theo những đề nghị của Ủy ban Tư vấn Thiết kế Thiết giáp hạm, vốn bao gồm các nhà thiết kế hải quân William Francis Gibbs, William Hovgaard (đang là Chủ tịch công ty New York Shipbuilding), John Metten, Joseph W. Powell, và Đô đốc hồi hưu Joseph Strauss, người từng đứng đầu Văn phòng Đạn dược. Ủy ban này yêu cầu một thiết kế hoàn toàn mới dựa trên lớp South Dakota 35.000 tấn được mở rộng. Những kế hoạch đầu tiên cho thấy có thể đạt được tốc độ trên một thiết kế khoảng ; và sẽ đạt được với hệ thống động lực công suất và một trọng lượng choán nước khoảng , vốn thấp hơn nhiều so với giới hạn hiệp ước 45.000 tấn.

Những thiết kế này đủ sức thuyết phục Ủy ban Tướng lĩnh rằng một kiểu thiết giáp hạm 33-knot được thiết kế tốt, hợp lý và cân bằng sẽ đạt được trong phạm vi giới hạn của "điều khoản leo thang". Tuy nhiên những nghiên cứu tiếp theo đã vạch ra những sai sót lớn trong ước lượng. Tốc độ của con tàu khiến cần phải có thêm độ nổi ở phía mũi và giữa tàu, do đó phải tăng thêm chiều cao của đai giáp; thêm vào đó là những yêu cầu bổ sung: cấu trúc lườn tàu phải được tăng cường, và hệ thống động lực phải mạnh hơn để không làm giảm sút tốc độ. Cuối cùng, cần phải tăng thêm ; và khoảng dự trữ lớn khoảng , mà các nhà thiết kế trước đó cho rằng có thể đạt được, đột nhiên biến mất.

Với trọng lượng choán nước tăng thêm, Ủy ban Tướng lĩnh hoài nghi việc bổ sung thêm trọng lượng choán nước chỉ cho phép gia tăng tốc độ thêm so với lớp South Dakota. Thay vì giữ lại kiểu pháo 16"/45 caliber Mark 6 sử dụng trên lớp South Dakota, ủy ban chỉ thị những nghiên cứu trong tương lai phải bao gồm kiểu 16"/50 caliber Mark 2, mạnh hơn nhưng cũng nặng hơn, vốn là di sản của các lớp tàu chiến-tuần dương Lexington và lớp thiết giáp hạm South Dakota cũ vào đầu những năm 1920. Nó cũng cho phép mớn nước sâu hơn, có nghĩa là con tàu sẽ ngắn hơn (tiết kiệm trọng lượng) và giảm bớt công suất động cơ, nhờ mối tương quan chỉ số giữa độ rộng mạn tàu và mớn nước là một trong những yếu tố chính xác định độ cản nước của lườn tàu.

Pháo chính 50 caliber nặng hơn khoảng so với pháo 45 caliber, ngoài ra kích thước bệ tháp pháo cũng phải được mở rộng, nên tổng trọng lượng tăng thêm vào khoảng , đưa con tàu lên tới mức , vượt hơn rất nhiều so với giới hạn 45.000. Tuy nhiên cứu cánh đã xuất hiện khi Văn phòng Đạn dược đưa ra một thiết kế sơ thảo cho một tháp pháo có thể mang pháo 50 caliber trên một bệ tháp pháo nhỏ hơn. Đột phá này được trình bày cho Ủy ban Tướng lĩnh như một phần của một loạt thiết kế vào ngày 2 tháng 6, 1938.

Tuy nhiên, Văn phòng Đạn dược lại tiếp tục làm việc với một thiết kế bệ tháp pháo lớn hơn, trong khi Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa sử dụng bệ tháp pháo nhỏ hơn cho những kế hoạch sau cùng của lớp thiết giáp hạm mới. Vì các văn phòng độc lập với nhau theo cách nào đó, họ không nhận ra hai kế hoạch không ăn khớp với nhau cho đến tháng 11, 1938, khi thiết kế đã đến bước tinh chỉnh sau cùng. Vào lúc này các con tàu không thể sử dụng bệ tháp pháo lớn hơn, do phải thay đổi rất lớn thiết kế và tăng thêm trọng lượng choán nước. Tai họa phải hủy bỏ các kế hoạch đã không xảy ra khi những nhà thiết kế của Văn phòng Đạn dược đã có thể thiết kế một kiều pháo 50 caliber mới, pháo 16 inch/50 caliber Mark 7, nhẹ hơn và có đường kính ngoài nhỏ hơn, cho phép đặt nó vào trong tháp pháo vừa với những bệ tháp pháo nhỏ.

Đến cuối năm 1938, thiết kế của lớp Iowa đã hầu như hoàn tất, chỉ còn những vấn đề nhỏ cần sửa chữa. Vào tháng 11, 1939, Xưởng hải quân New York thay đổi đáng kể việc phân ngăn trong phòng động cơ, do những thử nghiệm cho thấy sự bảo vệ dưới nước cho những phòng này chưa thỏa đáng. Kết quả đem lại rất ích lợi: những ảnh hưởng do ngập nước được giảm thiểu khoảng một nữa, và số lượng ống thông hơi cùng những khoảng mở lên sàn tầng 3 giảm đáng kể. Cho dù những thay đổi này làm tăng thêm trọng lượng và khiến mạn tàu rộng thêm , nó không còn là một vấn đề lớn, khi Anh và Pháp đã từ bỏ Hiệp ước Hải quân London thứ hai sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ.

Lịch sử hoạt động

thumb|right|alt=A black and white photograph showing four ships at various distances sailing from the right to the left.|Cả bốn chiếc thiết giáp hạm lớp Iowa hiện diện cùng một lúc trong lần đầu tiên và duy nhất, 1954 Khi được đưa vào phục vụ vào những năm cuối cùng của Thế Chiến II, những thiết giáp hạm lớp Iowa được phân công hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương. Vào thời điểm này của chiến tranh, tàu sân bay đã thay thế cho thiết giáp hạm giữ vai trò lực lượng tấn công chủ lực trong cả Hải quân Hoa Kỳ lẫn Hải quân Đế quốc Nhật Bản; và do hậu quả của việc thay đổi chiến thuật này, mọi lớp thiết giáp hạm Hoa Kỳ đều được chuyển sang vai trò phụ là hộ tống các tàu sân bay, và được phân về các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh để bảo vệ phòng không cho các tàu sân bay và tiến hành bắn phá bờ biển. Sau khi chiến tranh kết thúc, Iowa, New JerseyWisconsin được cho xuất biên chế và bị bỏ không trong thành phần dự bị; việc chế tạo hai con tàu chưa hoàn tất, Illinois hải quân tăng cường bắn phá bằng hải pháo dọc bờ biển, và New Jersey được huy động trở lại, trở thành chiếc thiết giáp hạm duy nhất hoạt động trên thế giới vào năm 1968. Từ ngày 6 tháng 4, 1968 đến ngày 17 tháng 12, 1969, nó đã hoạt động dọc theo bờ biển Việt Nam ngoài khơi khu phi quân sự, bắn gần 6.000 quả đạn pháo và trên 14.000 quả đạn pháo xuống các mục tiêu đối phương. Nó lại được xuất biên chế trong năm tiếp theo.

Vào Thập niên 1980, mọi chiếc trong lớp Iowa đều được cho tái hoạt động trong khuôn khổ kế hoạch tăng cường quân sự của Tổng thống Ronald Reagan và tạo ra một Hải quân 600 tàu chiến. Chúng được dự tính để đối phó với lớp tàu tuần dương tên lửa hành trình Orlan mới của Liên Xô, vốn thường được phương Tây đặt tên là lớp tàu chiến-tuần dương Kirov. Mỗi thiết giáp hạm được hiện đại hóa để mang các bộ tác chiến điện tử, các hệ thống phòng thủ tầm gần (CIWS: Close-in Weapon System) và tên lửa hành trình. Chúng sẽ trở thành hạt nhân của nhóm tác chiến thiết giáp hạm (BBBG: battleship battle group). Nhiệm vụ của chúng trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 bao gồm sự kiện Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc Nội chiến Liban sau vụ Đánh bom trại binh Beirut 1983, và trong các Chiến dịch Lá chắn sa mạc năm 1990 và Chiến dịch Bão táp sa mạc từ tháng 1 đến tháng 2, 1991. Được cho xuất biên chế lần sau cùng do những vấn đề về cắt giảm ngân sách vào đầu những năm 1990, những chiếc trong lớp Iowa được chia thành hai nhóm: nhóm được giữ lại trong thành phần Hạm đội Dự bị Hải quân Hoa Kỳ và nhóm sẽ được trao tặng để sử dụng như những tàu bảo tàng.

Vào năm 1996, Đạo luật Ủy nhiệm Phòng thủ Quốc gia cho phép rút tên IowaMissouri khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân. Missouri được trao tặng cho Hiệp hội Tưởng niệm Missouri tại Trân Châu Cảng, Hawaii để sử dụng như một tàu bảo tàng. Iowa chuẩn bị để được trao tặng như Missouri, nhưng sau đó được giữ lại trong Đăng bạ Hải quân sau khi Đạo luật Ủy nhiệm Phòng thủ Quốc gia Strom Thurmond năm 1999 cho phép trao tặng New Jersey như một tàu bảo tàng. Hai chiếc thiết giáp hạm sau cùng của lớp Iowa rời khỏi hạm đội dự bị vào năm 2006; Wisconsin đã được chính thức sử dụng như một tàu bảo tàng,

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**Lớp thiết giáp hạm _Montana**_ là một lớp thiết giáp hạm được vạch kế hoạch cho Hải quân Hoa Kỳ nhằm nối tiếp lớp _Iowa_; sẽ chậm hơn nhưng lớn hơn, có vỏ giáp tốt
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ thứ nhất là một lớp bao gồm sáu thiết giáp hạm, được đặt lườn vào năm 1920 cho Hải quân Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Nếu
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**USS _Iowa_ (BB-61)** (biệt danh "The Big Stick") là thiết giáp hạm đầu tiên của lớp _thiết giáp hạm Iowa_ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**HMS _Vanguard_ (23)** là một thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai và chỉ được đưa vào
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**USS _Missouri_ (BB-63)** (tên lóng "**Mighty Mo**" hay "**Big Mo**") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang
**USS _Alabama_ (BB-60)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ sáu của hải quân Mỹ mang cái tên này, nhưng chỉ là chiếc
**USS _Massachusetts_ (BB-59)**, tên lóng mà thủy thủ đoàn thường gọi "Big Mamie" trong Thế Chiến II, là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_. Nó là chiếc tàu chiến thứ bảy của Hải
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Iowa**_ nhằm tôn vinh tiểu bang Iowa: * USS _Iowa_ (1864) là một tàu monitor nguyên mang tên _Ammonoosuc_ chưa từng đưa
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Kirov**_, được Liên Xô chỉ định với cái tên "Project 1144 Orlan" (đại bàng biển), là một lớp tàu tuần dương mang tên lửa hành trình chạy bằng năng lượng hạt
**Lớp tàu tuần dương _Katori**_ (tiếng Nhật: 香取型練習巡洋艦, Katori-gata renshū-junyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ban đầu được dự định như những tàu huấn luyện, chúng
**Tàu khu trục lớp Cơ Long** (Tiếng Trung: **基隆/Kee Lung**) là lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường **(DDG)** chủ lực đang phục vụ trong biên chế Hải quân Trung Hoa Dân Quốc
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
**USS _The Sullivans_ (DD-537)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**USS _William D. Porter_ (DD-579)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Alaska_ (CB–1)**, chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp _Alaska_ vốn dự
**USS _Trippe_ (DD-403)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Ellyson_ (DD-454/DMS-19)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Randolph_ (CV/CVA/CVS-15)** là một trong số 24 chiếc tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Hall_ (DD-583)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Halligan_ (DD-584)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _New Jersey**_ (BB-62) (tên lóng "Big J" hay "Black Dragon" ) là 1 thiết giáp hạm thuộc lớp _Iowa_ và là con tàu thứ 2 của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
phải|Đạn pháo 380mm trong [[Musée national de la Marine|Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Pháp. Dùng cho 380mm/45 Modèle 1935 (Pháo bắn đạn xuyên phá 380mm tỉ lệ chiều dài nòng CaL 45)]] Ngày nay,
**Đảo Staten** (tiếng Anh: _Staten Island_) là một quận của Thành phố New York nằm trong phần phía tây nam của thành phố. Ngăn cách Đảo Staten với tiểu bang New Jersey là hai eo
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ đã mang tên **USS _Missouri**_ nhằm tôn vinh tiểu bang Missouri: * , một tàu frigate hơi nước hạ thủy năm 1841 và bị phá hủy bởi