✨Alaska (lớp tàu tuần dương)

Alaska (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Alaska_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi là tàu chiến-tuần dương, Hải quân Hoa Kỳ chính thức xếp hạng chúng là những tàu tuần dương cỡ lớn với ký hiệu lườn CB. Bản chất trung gian của chúng được thể hiện qua tên mà chúng được đặt so với thông lệ đặt tên cho thiết giáp hạm và tàu tuần dương vào lúc đó, tất cả đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc vùng quốc hải" của Hoa Kỳ. Trong số sáu chiếc được vạch kế hoạch, có ba chiếc được đặt lườn, và chỉ có hai chiếc được hoàn tất. Việc chế tạo chiếc thứ ba bị ngưng lại vào ngày 16 tháng 4 năm 1945 khi nó đã hoàn tất được 84%. Hai chiếc được hoàn tất, và đã phục vụ trong hai năm sau cùng của Thế chiến II trong vai trò bắn phá bờ biển và hộ tống các tàu sân bay nhanh. Cả hai chiếc đều được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 chỉ sau khi phục vụ được 32 và 29 tháng tương ứng.

Ý tưởng về một lớp tàu tuần dương cỡ lớn khởi sự vào đầu thập niên 1930, khi Hải quân Hoa Kỳ muốn đối phó lại những chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland được Đức cho hạ thủy và đưa vào hoạt động. Cho dù không có một kết quả cụ thể nào ngay lập tức, kế hoạch về những chiếc tàu sau đó tiến triển thành lớp Alaska vào cuối thập niên 1930 sau khi Đức đưa vào hoạt động lớp Scharnhorst cùng những lời đồn đại rằng Nhật Bản đang chế tạo một lớp tàu chiến-tuần dương mới. Lớp Alaska được dự định để hoạt động như những "tàu diệt tàu tuần dương", có khả năng truy tìm và tiêu diệt các tàu tuần dương hạng nặng "sau Hiệp ước". Để đạt được những mục tiêu đó, lớp tàu được trang bị súng có cỡ nòng lớn hơn trên một thiết kế mới và đắt tiền, lớp vỏ giáp giới hạn ở mức chống chọi được đạn pháo 305 mm (12 inch), và hệ thống động lực có thể đạt tốc độ tối đa khoảng 58–61 km/h (31–33 knot).

Bối cảnh

Việc phát triển kiểu tàu tuần dương hạng nặng được tiến triển đều đặn giữa Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington và những hiệp ước tiếp theo sau. Trong Hiệp ước này, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italy đồng ý giới hạn trọng lượng rẽ nước của tàu tuần dương hạng nặng ở mức 10.000 tấn và hải pháo cỡ nòng 203 mm (8 inch). Cho đến lớp Alaska, các tàu tuần dương Mỹ được thiết kế giữa hai cuộc thế chiến đều tuân thủ theo hạn ngạch này.

Sự thúc đẩy ban đầu cho việc thiết kế lớp Alaska đến từ việc đưa ra hoạt động những tàu tuần dương thuộc lớp Deutschland vốn còn được gọi là những thiết giáp hạm bỏ túi vào đầu thập niên 1930. Cho dù không có hành động nào được tiến hành ngay lập tức, các kế hoạch được xem xét lại vào cuối thập niên 1930 sau khi các báo cáo tình báo cho rằng Nhật Bản đang vạch kế hoạch hoặc đang chế tạo các "siêu tàu tuần dương" mạnh hơn nhiều so với các tàu tuần dương hạng nặng của Mỹ. Hải quân Hoa Kỳ phản ứng lại vào năm 1938 khi Ban chỉ huy Hải quân Hoa Kỳ gửi một yêu cầu đến Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa về một "nghiên cứu toàn diện về mọi loại tàu hải quân để cân nhắc về một chương trình chế tạo mới mở rộng". Tổng thống Hoa Kỳ vào lúc đó, Franklin Delano Roosevelt, có thể đã đóng vai trò chính trong việc phát triển lớp tàu này bởi mong ước của ông có thể đáp trả khả năng tấn công của các tàu tuần dương Nhật và thiết giáp hạm bỏ túi Đức, vốn đã khiến cho chúng được gọi là một sự "động viên chính trị", nhưng những nhận xét như vậy thật khó mà làm rõ được.

Thiết kế

Một sử gia đã mô tả quá trình thiết kế lớp Alaska là một sự "dày vò đau khổ" do nhiều thay đổi và cải biến trên thiết kế của con tàu bởi nhiều cá nhân và bộ phận. trải từ thiết kế như kiểu tàu tuần dương phòng không 6.000 tấn thuộc lớp Atlanta cho đến các kiểu tàu tuần dương hạng nặng "phình to" Thiết kế cuối cùng được chọn là một phiên bản mở rộng của lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore có hệ thống động lực giống như các tàu sân bay lớp Essex. Con tàu này kết hợp dàn pháo chính gồm chín khẩu 305 mm (12 inch) cùng vỏ giáp bảo vệ đủ để chống lại đạn pháo 254 mm (10 inch) trong một thân tàu có khả năng di chuyển 61 km/h (33 knot). Vai trò của chiếc tàu chiến mới cũng thay đổi đôi chút; ngoài vai trò đối chiến trên mặt biển, chúng còn được sử dụng để bảo vệ các tàu sân bay. Vì có được cỡ pháo lớn hơn, kích thước lớn và tốc độ cao, chúng có giá trị hơn trong vai trò này hơn các tàu tuần dương hạng nặng, và chúng cũng là đảm bảo cho các báo cáo tình báo rằng Nhật Bản đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn các tàu tuần dương Mỹ. Được thiết kế vào năm 1939, nó cân nặng 55,3 tấn (121.856 lb) kể cả khóa nòng, và có thể chịu được tốc độ bắn trung bình 2,4–3 phát mỗi phút. Nó có thể bắn một đầu đạn Mark 18 xuyên thép nặng 517 kg (1.140 lb) đi xa 35.271 m (38.573 yard) ở góc nâng 45°, trong khi nòng súng có tuổi thọ 344 phát

Các tháp pháo của chúng rất giống như những chiếc trên lớp thiết giáp hạm Iowa, nhưng có những khác biệt ở nhiều điểm; ví dụ, lớp Alaska có một thang nâng thuốc đạn hai tầng, thay vì chỉ có một tầng như trên lớp Iowa. Sự khác biệt này giúp cho việc sử dụng khẩu pháo an toàn hơn và gia tăng tốc độ bắn. Ngoài ra, một "que thông đầu đạn" được bổ sung cho AlaskaGuam. Thiết bị này chuyển đầu đạn từ kho chứa đến vòng xoay để có thể nạp vào các khẩu pháo. Tuy nhiên, đặc tính này tỏ ra không thật hiệu quả, nên đã không dự định trang bị cho Hawaii hay mọi tàu khác sau đó.

Hỏa lực phòng không

nhỏ|phải|Một khẩu đội pháo phòng không [[Bofors 40 mm trên chiếc USS Alaska đang nạp đạn vào khẩu bên trái của cặp pháo trong Trận Iwo Jima vào ngày 6 tháng 3 năm 1945]] Nhằm mục đích phòng không, lớp Alaska mang theo 56 khẩu 40 mm và 34 khẩu 20 mm. Những con số này có thể so sánh với 48 khẩu 40 mm và 24 khẩu 20 mm trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore nhỏ hơn; hoặc với 80 khẩu 40 mm và 49 khẩu 20 mm trên lớp thiết giáp hạm Iowa lớn hơn.

Được cho là vũ khí phòng không hạng nhẹ hiệu quả nhất trong Thế Chiến II, pháo Bofors 40 mm được sử dụng trên hầu hết các tàu chiến chủ lực của các hạm đội Anh-Mỹ từ năm 1943 đến năm 1945. Cho dù chúng là hậu duệ của các thiết kế Đức và Thụy Điển, các khẩu Bofors được Hải quân Mỹ sử dụng trong Thế Chiến II đã được "Mỹ hóa" đáng kể, nâng kiểu vũ khí này lên đủ tiêu chuẩn của Hải quân Mỹ. Tiêu chuẩn mới này đưa đến một hệ thống súng đạn theo tiêu chuẩn Anh (mà ngày nay Hoa Kỳ gọi là Hệ thống Tiêu chuẩn) với đạn dược có thể thay đổi lẫn nhau được nhằm đơn giản hóa vấn đề tiếp liệu trong Thế Chiến II. Khi được ghép với hệ thống vận hành thủy lực nhằm giảm thiểu việc nhiễm muối mặn, và bộ ngắm Mark 51 để cải thiện độ chính xác, pháo Bofors 40 mm trở thành một kẻ thù đáng sợ, với thành tích tiêu diệt gần phân nửa tổng số máy bay Nhật Bản bị bắn rơi từ ngày 1 tháng 10 năm 1944 đến ngày 1 tháng 2 năm 1945.

Kiểu pháo phòng không Oerlikon 20 mm là một trong những vũ khí phòng không được sử dụng rộng rãi nhất trong Thế Chiến II; riêng người Mỹ đã sản xuất tổng cộng 124.735 khẩu. Khi được giới thiệu vào năm 1941, chúng thay thế cho súng máy M2 Browning 0,50 inch trên căn bản một-đổi-một. Pháo Oerlikon là vũ khí phòng không hàng đầu của Hải quân Mỹ cho đến khi Bofors 40 mm được giới thiệu vào năm 1943.

Khả năng cải biến thành tàu sân bay

nhỏ|phải|upright|[[USS Alaska (CB-1)|USS Alaska (CB-1) đang được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943]] Còn có thêm một thay đổi lớn khác được cân nhắc đến trong giai đoạn "khủng hoảng tàu sân bay" vào đầu năm 1942. Ở thời điểm này, khi chiếc USS Saratoga bị loại khỏi vòng chiến ít nhất cho đến tháng 5 sau khi bị hư hại do ngư lôi và USS Lexington bị mất trong trận chiến biển Coral, Hải quân và Tổng thống nhận ra rằng Hoa Kỳ cần có thêm tàu sân bay càng nhanh càng tốt. Kết quả là, Văn phòng Tàu chiến quyết định cải biến một số lườn tàu vốn đang được chế tạo thành tàu sân bay. Vào nhiều dịp khác nhau trong năm 1942, họ từng cân nhắc việc cải biến một phần hay tất cả các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland, tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Baltimore, lớp Alaska, hoặc ngay cả một thiết giáp hạm lớp Iowa; cuối cùng họ đã chọn Cleveland.

Ý tưởng cải biến các tàu tuần dương lớp Alaska thành những tàu sân bay tỏ ra "đặc biệt hứa hẹn" Tuy nhiên, khi so sánh các tàu tuần dương Alaska với các tàu sân bay Essex, chiếc tàu tuần dương cải biến sẽ có một sàn đáp ngắn hơn nên chỉ mang theo được 90% số máy bay,

Chế tạo

Trong số sáu chiếc lớp Alaska được vạch kế hoạch, chỉ có ba chiếc được đặt lườn, và chỉ có hai chiếc đầu tiên, AlaskaGuam, được hoàn tất. Việc chế tạo chiếc thứ ba Hawaii bị ngưng lại vào ngày 16 tháng 4 năm 1947 khi nó hoàn tất được 84%. và khi nhận thức rằng những con tàu "diệt tàu tuần dương" này không còn mục tiêu để săn đuổi, khi mà hạm đội tàu tuần dương Nhật Bản đã bị đánh bại bởi máy bay và tàu ngầm, làm cho Alaska trở thành những con "bạch tượng". Kết quả là cả hai con tàu đều bị rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960. Alaska bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 6 năm 1960, và Guam vào ngày 24 tháng 5 năm 1961. và việc này kéo dài cho đến ngày 26 tháng 2 năm 1952, khi một phương án cải biến khác được đề nghị nhằm biến nó thành một tàu chỉ huy lớn. Nhắm trước cho việc cải biến, ký hiệu lườn của con tàu được thay đổi từ CB-3 thành CBC-1. Điều này sẽ biến nó thành "tàu chị em lớn" với chiếc Northampton (CLC-1); tuy nhiên, ký hiệu này sau đó được đổi thành CB để thể hiện tên mới của chúng, "tàu tuần dương cỡ lớn", và mọi khái niệm liên hệ chúng như là những tàu chiến-tuần dương đều bị chính thức phủ nhận. chia sẻ cùng một kiểu cột ăng-ten dạng cột lớn, và mang các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng dọc hai bên của cấu trúc thượng tầng, cho dù các thiết giáp hạm có tám (lớp tàu cũ được tái trang bị) hoặc mười (sau lớp South Dakota) khẩu đội 127 mm (5 inch)/38 nòng đôi hai bên lườn trong khi các tàu tuần dương Alaska chỉ có sáu khẩu đội: một ở mỗi góc của cấu trúc thượng tầng và một trước và sau trục dọc con tàu.

Có hai điểm tranh luận chính để có thể xem lớp Alaska như những "tàu tuần dương lớn". Trước tiên là lớp vỏ giáp; trong khi chúng chịu đựng được nhiều hỏa lực pháo hơn bất kỳ chiếc tàu tuần dương nào, Alaska hầu như không thể tự vệ trước ngư lôi vì chúng hoàn toàn không có các ngăn kín nước trong lườn tàu và không có đai giáp chống ngư lôi. Việc thiếu sót một sự bảo vệ dưới mực ngấn nước cũng làm cho chúng mong manh trước các quả đạn pháo rơi ngay trước mục tiêu và tiếp tục hành trình dưới nước trước khi đánh trúng lườn tàu. Chúng mong manh trước hỏa lực của thiết giáp hạm cỡ 355–406 mm (14–16 inch) ở mọi khoảng cách. Lập luận thứ hai hoàn toàn dựa trên thiết kế của chúng. Việc chế tạo lớp Alaska ngay từ lúc đặt lườn là một phiên bản mở rộng của một tàu tuần dương hạng nặng theo hiệp ước, mà cuối cùng được giải tỏa không bị ràng buộc bởi các hiệp ước hải quân Washington, London và London thứ hai. Lớp Alaska có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp chiếm 28,4%, hơi ít hơn so với các kiểu tàu chiến-tuần dương và thiết giáp hạm nhanh đương thời, khi lớp thiết giáp hạm King George V, tàu chiến-tuần dương Hood và lớp thiết giáp hạm Iowa có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp giữa 32 và 33%. Trong thực tế, các tàu chiến-tuần dương cũ, như là lớp Invincible, có tỉ lệ trọng lượng vỏ giáp ít hơn đáng kể (19,9%). Ở khía cạnh trọng lượng rẽ nước, lớp Alaska nặng gần gấp đôi những chiếc tàu tuần dương mới nhất (lớp Baltimore). Thêm vào đó, chúng có cỡ pháo chính lớn hơn rất nhiều; trong khi lớp Alaska mang chín khẩu pháo 305 mm (12 inch)/50, vốn có khả năng tương đương nếu không nói là tốt hơn pháo 355 mm (14 inch)/50 kiểu cũ được sử dụng trên các thiết giáp hạm Mỹ trước hiệp ước, lớp Baltimore chỉ có số lượng tương đương pháo 203 mm (8 inch)/55 Mark 12 hoặc 15.

Những chiếc trong lớp

  • được đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 6 năm 1944. Nó phục vụ tại Thái Bình Dương, hộ tống các tàu sân bay và bắn pháo hỗ trợ xuống Okinawa trước khi hoạt động tiêu diệt tàu bè đối phương trong biển Đông Trung Quốc. Alaska được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947 sau khi hoạt động không đầy ba năm, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 6 năm 1960.
  • USS Puerto Rico (CB-5) được dự định là chiếc thứ năm trong lớp. Nó được dự tính sẽ chế tạo tại Camden, New Jersey, nhưng bị hủy bỏ trước khi bắt đầu.
  • USS Samoa (CB-6) được dự định là chiếc thứ sáu trong lớp. Nó được dự tính sẽ chế tạo tại Camden, New Jersey, nhưng bị hủy bỏ trước khi bắt đầu.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
Tàu tuần dương hạng nhẹ HMS _Belfast_ hiện nay. Nó mang 12 khẩu [[hải pháo BL 152 mm (6 inch) Mark XXIII và có trọng lượng 11.553 tấn. Từ "nhẹ" trong Thế Chiến II liên
**USS _Alaska_ (CB–1)**, chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp _Alaska_ vốn dự
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Alaska**_, ba chiếc đầu theo tên phần lãnh thổ do Nga nhượng lại năm 1867, và chiếc cuối cùng nhằm tôn vinh
**USS _Juneau_ (CL-52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Atlanta_ từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Guam**_, theo tên đảo Guam. * USS _Guam_ (PG-43) là một pháo hạm hoạt động tại Trung Quốc, được đổi tên _Wake_
Thành phố và quận (borough) **Juneau** (/ dʒu ː noʊ /) là một thành phố thống nhất nằm bên kênh Gastineau ở Panhandle của tiểu bang Alaska. Nó đã là thủ phủ của Alaska từ
**Portland** có nhiều ý nghĩa. Nó là tên của nhiều thành phố, trong đó những thành phố lớn nhất là Portland, Oregon và Portland, Maine, Hoa Kỳ. Địa danh gốc là Đảo Portland, ở Dorset,
**USS _Guam_ (CB-2)** là một tàu tuần dương lớn thuộc lớp _Alaska_ phục vụ trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ trong suốt khoảng thời gian cuối Thế chiến II. Đây là chiếc tàu thứ
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**USS _Tuscaloosa_ (CA-37)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, tên của nó được đặt theo thành phố Tuscaloosa thuộc tiểu bang Alabama. Trong Chiến tranh
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**USS _Louisville_ (CA-28)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ ba trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**USS _Memphis_ (CL-13)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã tiếp tục
**USS _Chester_ (CL/CA-27)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt
**USS _Detroit_ (CL-8)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**T****àu ma** là một chiếc tàu không có thủy thủ đoàn sống trên đó, nó có thể là một tàu bị ma ám trong văn hóa dân gian hay viễn tưởng hư cấu, như tàu
**Tuần duyên Hoa Kỳ** hay **Dương hải vệ Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Coast Guard_ hay viết tắt là **USCG**) là một quân chủng của quân đội Hoa Kỳ và là một trong 8
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-180_** (nguyên mang tên **_I-80_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu năm 1943. Nó đã hoạt động trong
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-9_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-31_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**USS _Kane_ (DD-235/APD-18)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Ammen_ (DD-527)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Carpenter_ (DD-825/DDK-825/DDE-825)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Doneff_ (DE-49)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Rhodes_ (DE-384/DER-384)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Edsall_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Dunlap_ (DD–384)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Halford_ (DD-480)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Woodworth_ (DD-460)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Say chiến tranh, nó được chuyển giao cho
**USS _Worden_ (DD-352)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Hull_ (DD-350)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Farragut_ (DD-348)** là một tàu khu trục, là chiếc dẫn đầu của lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Case_ (DD-370)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Gridley_ (DD-380)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu cho lớp _Gridley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Coghlan_ (DD-606)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ