✨Tàu chiến chủ lực

Tàu chiến chủ lực

thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hoa Kỳ (bên phải) và tàu sân bay của Anh (bên trái)]]

Tàu chiến chủ lực là những tàu chiến quan trọng nhất đối với lực lượng hải quân, thường là những con tàu lớn hơn khi so sánh với các tàu chiến khác trong hạm đội tương ứng của chúng. Một tàu chiến chủ lực nói chung thường là con tàu dẫn đầu hoặc soái hạm trong một hạm đội hải quân.

Ý nghĩa chiến lược

Thường không có tiêu chí chính thức để phân loại, nhưng tàu chiến chủ lực là một khái niệm hữu ích trong chiến lược hải quân; ví dụ, nó cho phép so sánh sức mạnh tương đối giữa các lực lượng hải quân trong cùng một mặt trận tác chiến mà không cần phải xem xét đến các chi tiết cụ thể về trọng tải hoặc kích cỡ pháo.

Một ví dụ đáng chú ý về điều này là học thuyết Mahanian, được áp dụng trong việc lập kế hoạch phòng thủ Singapore trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà Hải quân Hoàng gia Anh phải quyết định phân bổ các thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương của họ giữa mặt trận Đại Tây Dương và mặt trận Thái Bình Dương. Học thuyết Mahanian cũng được áp dụng bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản, dẫn đến động thái tấn công Trân Châu Cảng và gây thiệt hại nặng nề cho nhiều tàu chiến, đặc biệt là các thiết giáp hạm, của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Bản chất hải quân của mặt trận tác chiến Thái Bình Dương, thường được gọi là Chiến tranh Thái Bình Dương, đã buộc Hải quân Hoa Kỳ chủ yếu triển khai các thiết giáp hạm và tàu sân bay của họ ở Thái Bình Dương. Chiến tranh ở châu Âu chủ yếu là chiến tranh trên bộ, do đó hạm đội tàu mặt nước của Đức có quy mô nhỏ, còn các tàu hộ tống được Khối Đồng Minh sử dụng trong Trận chiến Đại Tây Dương hầu hết là các tàu khu trục và tàu hộ tống khu trục để chống lại các mối đe dọa từ U-boat.

Kỷ nguyên tàu buồm

thumb|[[Tàu chiến tuyến là những tàu chiến chủ lực của thời đại tàu buồm. Trong ảnh là tàu chiến tuyến Santa Ana của Tây Ban Nha, một ví dụ rất lớn với 112 khẩu pháo]] Trước khi có sự ra đời của những tàu chiến bọc thép vào thời điểm cuối thế kỷ 19, tàu chiến chủ lực trong Kỷ nguyên tàu buồm thường được hiểu là một con tàu phù hợp với hệ thống xếp hạng của Hải quân Hoàng gia Anh về một tàu chiến tuyến được phân loại hạng nhất, hạng hai, hạng ba hoặc hạng tư:

  • Hạng nhất: 100 khẩu pháo trở lên, thường được bố trí trên ba hoặc bốn sàn tàu. Các tàu chiến tuyến bốn sàn tàu dễ gặp nạn trong điều kiện biển động và sàn tàu thấp nhất thường hiếm khi khai hỏa ngoại trừ trong điều kiện yên tĩnh.
  • Hạng hai: 90-98 khẩu pháo.
  • Hạng ba: 64-80 khẩu pháo (mặc dù tàu chiến tuyến hạng ba mang 64 khẩu pháo có kích thước nhỏ và số lượng không nhiều trong bất kỳ thời đại nào).
  • Hạng tư: 46-60 khẩu pháo. Đến năm 1756, những con tàu này được thừa nhận là quá yếu để có thể đứng trong hàng ngũ chiến đấu và bị loại xuống làm nhiệm vụ phụ trợ, mặc dù chúng cũng hoạt động ở vùng nước nông của Biển Bắc và cận duyên hải của Hoa Kỳ, nơi các tàu chiến tuyến lớn hơn không thể ra khơi.

Tàu frigate được xếp vào hạng năm; hạng sáu bao gồm các tàu frigate nhỏ và tàu corvette. Vào thời điểm cuối Chiến tranh Napoléon và cuối thế kỷ 19, một số tàu frigate lớn hơn và mạnh hơn được xếp vào hạng tư.

Thiết giáp hạm/tàu chiến-tuần dương

thumb|[[Thiết giáp hạm trở thành các tàu chiến chủ lực sau khi tàu chiến tuyến không còn được sử dụng và vẫn duy trì cho đến thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong ảnh là thiết giáp hạm dreadnought Đức ]] thumb|[[Tàu chiến-tuần dương Anh ]] Thuật ngữ "tàu chiến chủ lực" lần đầu tiên được đặt ra vào năm 1909, sau đó nó được định nghĩa chính thức trong các hiệp ước giới hạn của thập niên 1920-1930 gồm Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922, Hiệp ước Hải quân Luân Đôn năm 1930 và Hiệp ước Hải quân Luân Đôn lần thứ hai năm 1936. Thuật ngữ này chủ yếu được áp dụng cho những con tàu phát sinh từ cuộc cách mạng dreadnought: thiết giáp hạm dreadnought (ban đầu còn được gọi là dreadnought và sau đó là thiết giáp hạm) và tàu chiến-tuần dương.

Trong thế kỷ 20, đặc biệt là thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, các tàu chiến chủ lực điển hình là thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương. Tất cả các tàu trên đều có lượng choán nước gần 20.000 tấn trở lên, với pháo cỡ nòng lớn và giáp bảo vệ dày.

Tàu tuần dương, mặc dù có vai trò quan trọng, không được coi là các tàu chiến chủ lực. Một ngoại lệ đối với điều này trong Chiến tranh thế giới thứ hai là các tàu tuần dương lớp Deutschland. Mặc dù có thiết kế kỹ thuật tương tự như một tàu tuần dương hạng nặng, tốc độ chậm hơn các tàu tuần dương khác nhưng với trang bị pháo mạnh hơn đáng kể, chúng được một số người coi là tàu chiến chủ lực (do đó Hải quân Hoàng gia Anh gọi chúng là "thiết giáp hạm bỏ túi") vì là một trong số ít các đơn vị tàu chiến mặt nước hạng nặng của Kriegsmarine. Tàu tuần dương lớp Alaska của Hoa Kỳ, tàu chiến-tuần dương Thiết kế 1047 của Hà Lan và tàu tuần dương Thiết kế B-65 của Nhật Bản được lên kế hoạch đặc biệt nhằm chống lại những tàu tuần dương hạng nặng đang được chế tạo bởi các đối thủ của họ, đã được mô tả là "siêu tàu tuần dương", "tàu tuần dương cỡ lớn" hoặc "tàu tuần dương không hạn chế". Thậm chí một số người còn ủng hộ rằng chúng nên được coi là tàu chiến-tuần dương, tuy nhiên chúng chưa bao giờ được phân loại là tàu chiến chủ lực.

Trong Chiến tranh Lạnh, các tàu tuần dương tên lửa cỡ lớn lớp Kirov của Liên Xô có lượng choán nước đủ lớn để sánh ngang với các thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, có thể sẽ xác định một kiểu tàu chiến chủ lực mới cho thời đại đó. Tuy nhiên, về mặt thiết kế kỹ thuật, Kirov chỉ đơn giản là một lớp tàu tuần dương hạng nặng mang tên lửa dẫn đường và động cơ đẩy hạt nhân.

Tàu sân bay

thumb|Một chiếc [[McDonnell Douglas F/A-18 Hornet|F/A-18C Hornet phóng từ sàn đáp của tàu sân bay ]] Phải đến cuối năm 1942, tàu sân bay mới được mọi người coi là tàu chiến chủ lực. Chỉ những tàu sân bay cỡ lớn của hạm đội (dù được đóng theo mục đích hay được chuyển đổi từ khung thân thiết giáp hạm/tàu chiến-tuần dương) mới được coi là tàu chiến chủ lực, trong khi các tàu sân bay hạng nhẹ (thường sử dụng khung thân tàu tuần dương) và tàu sân bay hộ tống (thường sử dụng khung thân tàu buôn) thì không. Hải quân Hoa Kỳ buộc phải phụ thuộc chủ yếu vào tàu sân bay sau khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản tiến hành tấn công Trân Châu Cảng, đánh chìm hoặc làm hư hại tám thiết giáp hạm thuộc Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ.

Trong thế kỷ 21, tàu sân bay là kiểu tàu chiến chủ lực cuối cùng còn sót lại, với khả năng được xác định dựa trên các boong có sẵn và số lượng máy bay có thể mang theo, chứ không phải ở trang bị pháo và cỡ nòng. Hoa Kỳ là quốc gia sở hữu ưu thế lớn nhất về tàu sân bay, không chỉ sở hữu 11 siêu tàu sân bay đang hoạt động (mỗi siêu tàu sân bay có khả năng mang và phóng gần 100 máy bay chiến thuật) mà còn có thêm 9 tàu đổ bộ tấn công (dựa trên cấu hình "Sea Control Ship") có khả năng hoạt động tương đương với các tàu sân bay hạng nhẹ vận hành máy bay V/STOL của các quốc gia khác.

Bất chấp tầm quan trọng của chúng đối với các hạm đội hiện đại, Hải quân Hoa Kỳ chưa bao giờ đặt tên tàu sân bay theo tên các tiểu bang của Hoa Kỳ như thông lệ khi đặt tên cho các thiết giáp hạm được coi là tàu chiến chủ lực (ví dụ như lớp Iowa). Thay vào đó, tên các tiểu bang của Hoa Kỳ được áp dụng cho các tàu ngầm hạt nhân, trong khi các tàu sân bay được đặt theo tên của những chính trị gia và cá nhân nổi tiếng khác trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ, chẳng hạn như Chester W. Nimitz và Ronald W. Reagan (ngoại trừ Enterprise).

Tàu ngầm hạt nhân

thumb|[[Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo Hoa Kỳ ]] Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, mặc dù là các tàu quan trọng và có trọng tải tương tự như các thiết giáp hạm đời đầu, thường được tính là một thành phần trong chính sách răn đe hạt nhân của các quốc gia và không chia sẻ sứ mệnh kiểm soát trên biển của các tàu chiến chủ lực truyền thống. Tuy nhiên, nhiều lực lượng hải quân, bao gồm cả Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoa Kỳ, coi những con tàu này là tàu chiến chủ lực và đặt cho chúng một số cái tên trước đây từng được sử dụng bởi các thiết giáp hạm, ví dụ như DreadnoughtVanguard.

Đặt tên

Một số lực lượng hải quân đặt tên cụ thể cho các tàu chiến chủ lực của họ. Tên gọi dành riêng cho tàu chiến chủ lực được đặt theo tên các nguyên thủ quốc gia (ví dụ như Bismarck), các địa điểm quan trọng, các sĩ quan hoặc đô đốc hải quân nổi tiếng trong lịch sử (ví dụ như HNLMS De Ruyter), các sự kiện hoặc đối tượng lịch sử (ví dụ như ) và tên truyền thống (ví dụ như ). Tuy nhiên, có một số ngoại lệ đối với quy tắc đặt tên.

Bắt đầu với (thiết giáp hạm đầu tiên của Hoa Kỳ), các tàu chiến chủ lực được Hải quân Hoa Kỳ đặt tên theo các tiểu bang của họ như một thông lệ. Những tàu chiến khác được đặt tên theo các lãnh thổ của Hoa Kỳ (ví dụ như các tàu tuần dương lớp Alaska ngay trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai), các thành phố lớn của Hoa Kỳ (ví dụ như tàu tuần dương) hoặc Tổng thống Hoa Kỳ (ví dụ như tàu ngầm tấn công lúc đầu và tàu sân bay về sau). Vào khoảng thời gian trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng áp dụng thông lệ đặt tên các thiết giáp hạm theo tên các tỉnh (ví dụ như Yamato).

Bắt đầu với lớp tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên được trang bị Trident (tức là lớp Ohio), tên các tiểu bang đã được áp dụng cho các tàu ngầm hạt nhân của Hoa Kỳ, cho thấy vị thế của chúng như những tàu chiến chủ lực. Các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo trước đó (ví dụ như các tàu ngầm trang bị tên lửa Poseidon) không được đặt tên theo tiểu bang. Sau khi hoàn thành chiếc tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp Ohio cuối cùng, tên các tiểu bang đã được áp dụng cho các tàu ngầm tấn công (ví dụ như lớp Virginia). Các tàu ngầm tấn công trước đó được đặt tên theo các thành phố lớn (ví dụ như lớp Los Angeles) - giống như thông lệ trước đây từng áp dụng cho tàu tuần dương (ví dụ như ).

Trong văn hóa đại chúng

Thuật ngữ này đã được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng và văn hóa để mô tả các tàu vũ trụ lớn được sử dụng trong bối cảnh quân sự, đặc biệt khi các thuật ngữ hải quân khác cũng đã được sử dụng theo cách tương tự; ví dụ, các tàu vũ trụ chủ lực trong khoa học viễn tưởng thường đóng vai trò là "tàu sân bay", mang các phi thuyền chiến đấu nhỏ tương tự như cách tàu sân bay của hải quân trong thế giới thực mang máy bay chiến đấu, đồng thời có thể tác chiến như "thiết giáp hạm".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**_Renown_** là một lớp tàu chiến-tuần dương bao gồm 2 chiếc là: Renown và Repulse được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng nguyên là 2
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
là một cặp tàu tuần dương bọc thép lớn được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Các tàu bắt đầu được đóng giữa cuộc
nhỏ|[[HMS Victory|HMS _Victory_ năm 1884, mẫu còn lại duy nhất của tàu chiến tuyến]] **Tàu chiến tuyến** (tiếng Anh:_ship of the line_) là loại tàu chiến hoạt động trên biển được chế tạo từ thế
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Kirov**_, được Liên Xô chỉ định với cái tên "Project 1144 Orlan" (đại bàng biển), là một lớp tàu tuần dương mang tên lửa hành trình chạy bằng năng lượng hạt
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**Tàu khu trục lớp Murasame** (tiếng Nhật: むらさめ型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục thế
, hay còn được gọi là **lớp 19DD**, là một lớp tàu khu trục (**DD**) được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Dự án lớp
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
**Tàu khu trục lớp Hatsuyuki** (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục
**Tàu khu trục lớp Takatsuki** (tiếng Nhật: たかつき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục phòng không (**DDA**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Takatsuki là lớp tàu khu
|commander2=|units1=_Lực lượng Mặt đất_: **Bộ chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ, Thái Bình Dương** * Tập đoàn quân số 6 * Tập đoàn quân số 8 * Tập đoàn quân số 1 * Các đơn
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
**Trận chiến quần đảo Falkland** là một thắng lợi của Hải quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
**Tàu khu trục** **lớp Takanami** (tiếng Nhật: たかなみ型護衛艦, _Takanami-gata goeikan_) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
**Tàu khu trục lớp Shirane** (tiếng Nhật: **_しらね型護衛艦_**) là lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng **(DDH)** phục vụ trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Shirane là
**Channel Dash** hay **_Unternehmen Zerberus_** (Chiến dịch Cerberus) là một chiến dịch hải quân Đức trong thế chiến II. Một _Kriegsmarine_ (hải quân Đưc) hạm đội của cả s, tàu tuần dương hạng nặng và
**Tàu ngầm lớp Oyashio** (tiếng Nhật: **_おやしお_**) là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ điện-diesel do Nhật Bản tự phát triển và được đưa vào biên chế Lực lượng phòng vệ
**Tàu đổ bộ lớp Osumi** (Tiếng Nhật: **おおすみ型輸送艦)** là một lớp tàu vận tải đổ bộ thuộc Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Đây là lớp tàu thế hệ thứ 2 mang tên _Osumi
**_Admiral Graf Spee_** là một trong những tàu chiến nổi tiếng nhất của Hải quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với thiết giáp hạm _Bismarck_. Kích cỡ của nó bị giới
**Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst**_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc _Scharnhorst_ và _Gneisenau_, chúng lớn hơn lớp
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**_U-61_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là