✨USS Alaska (CB-1)
USS Alaska (CB–1), chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp Alaska vốn dự tính bao gồm sáu tàu tuần dương lớn. Không giống thông lệ đang có trong việc đặt tên thiết giáp hạm hay tàu tuần dương của Mỹ, tất cả những chiếc trong lớp, kể cả Alaska, đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc vùng quốc hải" của Hoa Kỳ nhằm nhấn mạnh vai trò trung gian của chúng giữa thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng hay hạng nhẹ thông thường.
Khi lớp tàu của nó được đặt hàng vào ngày 9 tháng 9 năm 1940, nó đưa đến sự ngạc nhiên cho nhiều người vì Hải quân Mỹ chưa bao giờ hoàn tất một tàu chiến-tuần dương trong suốt lịch sử của nó, ngay cả vào giai đoạn cực thịnh của kiểu tàu này trong những năm 1906- 1916. Tuy nhiên, việc chế tạo được xúc tiến, và ba chiếc đầu tiên của lớp là Alaska, Guam và Hawaii lần lượt được đặt lườn tại hãng New York Shipbuilding Corporation thuộc Camden, New Jersey vào các ngày 17 tháng 12 năm 1941, 2 tháng 2 năm 1942 và 20 tháng 12 năm 1943.
Alaska được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943, và được đưa ra hoạt động 11 tháng sau đó vào ngày 17 tháng 6 năm 1944. Sau nhiều lần chạy thử và một vài thay đổi, nó đi sang khu vực mặt trận Thái Bình Dương vào tháng 12 năm đó, đến San Diego ngày 12 tháng 12. Tiếp tục lên đường hướng sang Tây Thái Bình Dương, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 tại Ulithi vào ngày 10 tháng 2 năm 1945, và toàn bộ lực lượng này tấn công các đảo chính quốc Nhật Bản. Alaska thực hiện việc hộ tống cho lực lượng này, đặc biệt là các tàu sân bay, trong suốt tháng tiếp theo; nhưng vào ngày 19 tháng 3, sau khi tàu sân bay Franklin bị đánh trúng hai quả bom và bị buộc phải rút lui, một lực lượng hộ tống được hình thành bao gồm cả Alaska lẫn con tàu chị em Guam được hình thành để dẫn dắt con tàu sân bay hư hỏng quay trở lại Guam. Alaska tách khỏi lực lượng này vào ngày 22 tháng 3, tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay khi chúng đang tung ra các cuộc không kích nhắm vào Okinawa. Sau khi nã pháo xuống một hòn đảo nhỏ, nó lại lên đường hướng đến Ulithi, nơi nó gia nhập Đệ Tam hạm đội.
Trong hai tuần tiếp theo, nó bảo vệ các tàu sân bay của Đệ Tam hạm đội, sau đó Alaska cùng với tàu chị em Guam hướng đến Đông Hải tấn công các tàu bè Nhật Bản, và tiếp tục công việc này cho đến khi chiến tranh kết thúc. Sau khi thực hiện việc biểu dương lực lượng tại một số cảng, nó hỗ trợ cho việc đổ bộ lên miền Bắc Trung Quốc. Sau đó nó lên đường quay về Xưởng hải quân Boston, đến nơi vào ngày 18 tháng 12. Được chuẩn bị để cho ngừng hoạt động, nó được bố trí một chỗ neo đậu vĩnh viễn tại Bayonne, New Jersey; và vào ngày 13 tháng 8 năm 1946 nó được đưa vào lực lượng dự bị. Alaska chính thức ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947.
Cho dù có những đề nghị nhằm cải biến Alaska và tàu chị em với nó Guam thành những tàu tuần dương trang bị tên lửa điều khiển, Alaska vẫn bị rút khỏi Danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960 và được bán vào ngày 30 tháng 6 năm 1960 cho chi nhánh Lipsett của hãng Luria Brothers tại New York và được tháo dỡ sau đó.
Thiết kế và chế tạo
Bối cảnh
nhỏ|trái|Sơ đồ chiếc USS Alaska, như nó hiện hữu vào năm 1945. Việc phát triển kiểu tàu tuần dương hạng nặng được tiến triển đều đặn giữa Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington và những hiệp định tiếp theo sau. Trong Hiệp ước này, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italy đồng ý giới hạn trọng lượng rẽ nước của tàu tuần dương hạng nặng ở mức 10.000 tấn và hải pháo cỡ nòng 203 mm (8 inch). Vì vậy, các tàu tuần dương Mỹ được thiết kế giữa hai cuộc thế chiến đều tuân thủ theo hạn ngạch này. Sau khi Hiệp ước bị mất hiệu lực vào năm 1939, thiết kế được mở rộng đôi chút thành lớp Baltimore.
Ý tưởng về một lớp tàu chiến-tuần dương Mỹ bắt đầu vào đầu những năm 1930, khi Hải quân Mỹ muốn đối phó lại cả những chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland của Đức lẫn một lớp tàu chiến-tuần dương mới Lớp Alaska được dự định để hoạt động như những "tàu diệt tàu tuần dương", có khả năng truy tìm và tiêu diệt các tàu tuần dương hạng nặng "sau Hiệp ước". Để đạt được những mục tiêu đó, lớp tàu được trang bị súng có cỡ nòng lớn hơn trên một thiết kế mới và đắt tiền, lớp vỏ giáp giới hạn ở mức chống chọi được đạn pháo 305 mm (12 inch), và hệ thống động lực có thể đạt tốc độ tối đa khoảng 58–61 km/h (31–33 knot).
Công việc thiết kế lớp Alaska được thúc đẩy nhanh vào cuối những năm 1930 sau khi các báo cáo tình báo cho rằng Nhật Bản đang vạch kế hoạch hoặc đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn nhiều so với các tàu tuần dương Mỹ hạng nặng. Hải quân Mỹ phản ứng lại vào năm 1938, khi Ban chỉ huy Hải quân Mỹ gửi một yêu cầu đến Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa về một "nghiên cứu toàn diện về mọi loại tàu hải quân để cân nhắc về một chương trình chế tạo mới mở rộng". Tổng thống Mỹ vào lúc đó, Franklin Delano Roosevelt, có thể đã đóng vai trò chính trong việc phát triển lớp tàu này bởi mong ước của ông có thể đáp trả khả năng tấn công của các tàu tuần dương Nhật và thiết giáp hạm bỏ túi Đức, vốn đã khiến cho chúng được gọi là một sự "động viên chính trị", nhưng những nhận xét như vậy thật khó mà làm rõ được.
Thiết kế
Một sử gia đã mô tả quá trình thiết kế lớp Alaska là một sự "dày vò đau khổ" do nhiều thay đổi và cải biến trên thiết kế của con tàu bởi nhiều cá nhân và bộ phận. trải từ thiết kế như kiểu tàu tuần dương phòng không 6.000 tấn thuộc lớp Atlanta Nhằm mục đích giữ cho tải trọng con tàu dưới mức 25.000 tấn, Ban chỉ huy Hải quân đã cho phép các thiết kế chỉ có sự bảo vệ hạn chế bên dưới mực ngấn nước. Kết quả là khi chế tạo, lớp Alaska khá mong manh trước ngư lôi và đạn pháo rơi trước con tàu. Thiết kế cuối cùng được chọn là một phiên bản mở rộng của lớp tàu tuần dương hạng nặng Baltimore có hệ thống động lực giống như của lớp tàu sân bay Essex. Con tàu này kết hợp dàn pháo chính gồm chín khẩu 305 mm (12 inch) cùng vỏ giáp bảo vệ đủ để chống lại đạn pháo 254 mm (10 inch) trong một thân tàu có khả năng di chuyển 61 km/h (33 knot). tuy nhiên, ký hiệu này sau đó được đổi thành CB để thể hiện tên mới của chúng, "tàu tuần dương lớn", và mọi khái niện liên hệ chúng như là những tàu chiến-tuần dương đều bị chính thức phủ nhận. Vai trò của chiếc tàu chiến mới cũng thay đổi đôi chút; ngoài vai trò đối chiến trên mặt biển, chúng còn được sử dụng để bảo vệ các tàu sân bay. Vì có được cỡ pháo lớn hơn, tích thước lớn và tốc độ cao, chúng có giá trị hơn trong vai trò này hơn các tàu tuần dương hạng nặng, và chúng cũng là đảm bảo cho các báo cáo tình báo rằng Nhật Bản đang chế tạo các "siêu tuần dương" mạnh hơn các tàu tuần dương Mỹ. đã quyết định cải biến một số lườn tàu vốn đang được chế tạo thành tàu sân bay. Vào nhiều dịp khác nhau trong năm 1942, họ từng cân nhắc việc cải biến một phần hay tất cả các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland, tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Baltimore, lớp Alaska, hoặc ngay cả một thiết giáp hạm lớp Iowa; cuối cùng họ đã chọn Cleveland. Ý tưởng cải biến các tàu tuần dương lớp Alaska thành những tàu sân bay tỏ ra "đặc biệt hứa hẹn" Tuy nhiên, khi so sánh các tàu tuần dương Alaska với các tàu sân bay Essex, chiếc tàu tuần dương cải biến sẽ có một sàn đáp ngắn hơn nên chỉ mang theo được 90% số máy bay, Chín chiếc Cleveland được cải biến thành lớp tàu sân bay hạng nhẹ Independence, và việc chế tạo lớp Essex được đẩy nhanh đến mức có bảy chiếc được đưa ra hoạt động trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1942 đến tháng 11 năm 1943, sớm hơn nhiều so với mục tiêu 1944 đặt ra ban đầu. Kế hoạch cải biến Alaska bị hủy bỏ.
Chế tạo
Alaska được đặt lườn vào ngày 17 tháng 12 năm 1941 tại Camden, New Jersey bởi hãng đóng tàu New York Shipbuilding Corporation. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943; được đỡ đầu bởi Ernest Gruening, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 17 tháng 6 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Peter K. Fischler.
Alaska được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến đấu do thành tích hoạt động trong Thế Chiến II. Từng phục vụ trên chiếc tàu tuần dương trong thời chiến là một sĩ quan mới ra trường, mà sau này sẽ là phi hành gia Wally Schirra.