✨USS Chester (CA-27)

USS Chester (CA-27)

USS Chester (CL/CA-27) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp Northampton, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, đặt theo tên thành phố Chester thuộc tiểu bang Pennsylvania.

Lịch sử hoạt động

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Sau khi hoàn tất, Chester được điều về Hạm đội Đại Tây Dương. Nó khởi hành từ Newport, Rhode Island vào ngày 13 tháng 8 năm 1930 để bắt đầu một chuyến đi kéo dài sang châu Âu; ghé qua Barcelona, Naples, Constantinopolis, vịnh Phaleron và Gibraltar trước khi quay trở về Chester, Pennsylvania vào ngày 13 tháng 10 để thực hiện các sửa chữa. Nó gia nhập Hạm đội Tuần tiễu trong vai trò soái hạm của Hải đội Tuần dương Hạng nhẹ vào ngày 6 tháng 3 năm 1931, và đã đưa Bộ trưởng Hải quân đến khu vực kênh đào Panama nơi ông thị sát cuộc tập trận hạm đội từ trên thiết giáp hạm . Chester đưa ngài Bộ trưởng quay trở lại Miami, Florida vào ngày 22 tháng 3, rồi lên đường hướng đến vịnh Narragansett cho các cuộc tập trận cùng nhiệm vụ hộ tống hai tàu tuần dương Hải quân Pháp đến viếng thăm.

Đặt cảng nhà mới tại Trân Châu Cảng từ ngày 3 tháng 2, chiếc tàu tuần dương tiến hành tập trận tại vùng biển Hawaii, và thực hiện một chuyến đi đến Bờ Tây cùng với Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 18 tháng 6 năm 1941. Từ ngày 10 tháng 10 đến ngày 13 tháng 11, nó hộ tống hai tàu vận tải của Lục quân vận chuyển lực lượng tăng cường đến Manila thuộc Philippines. Trên đường quay trở về, nó gia nhập cùng tàu tuần dương chị em và tàu sân bay , và lực lượng vẫn đang trên đường quay trở về Trân Châu Cảng từ đảo Wake khi nhận được tin tức Nhật Bản đã bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. vào mạn phải ở giữa tàu vào ngày 20 tháng 10 làm thiệt mạng 11 người và bị thương 12 người khác. Nó quay về Espiritu Santo bằng chính động lực của nó để sửa chữa khẩn cấp vào ngày 23 tháng 10. Ba ngày sau, chiếc SS President Coolidge trúng phải một quả mìn, và Chester gửi các đội cứu hỏa và cứu hộ đến trợ giúp con tàu gặp nạn, cùng nhận lên tàu 440 người còn sống sót để chuyển đến Espiritu Santo. Nó đi đến Sydney, Australia vào ngày 29 tháng 10 để sửa chữa triệt để hơn, và nó khởi hành vào ngày Giáng Sinh quay về Norfolk cho một đợt đại tu toàn diện.

1943

Quay trở về San Francisco vào ngày 13 tháng 9 năm 1943, Chester tiến hành hoạt động hộ tống giữa cảng này Trân Châu Cảng cho đến ngày 20 tháng 10. Vào ngày 8 tháng 11, nó rời Trân Châu Cảng tham gia cuộc tấn công quần đảo Marshall. Nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên đảo Abemama và bắn phá mục tiêu đối phương trên các đảo Taroa, Wotje và Maloelap.

1944

Chester tiếp nối các nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm và phòng không ngoài khơi Majuro cho đến ngày 25 tháng 4 năm 1944, khi nó khởi hành đi San Francisco cho một đợt đại tu ngắn từ ngày 6 đến ngày 22 tháng 5. Nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 94 tại đảo Adak thuộc Alaska vào ngày 27 tháng 5 để tiến hành bắn phá các công sự phòng thủ đối phương tại Matsuwa và Paramushir thuộc quần đảo Kuril vào các ngày 13 và 26 tháng 6, rồi quay về Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 13 tháng 8.

Chester khởi hành vào ngày 29 tháng 8 cùng với Đội Đặc nhiệm 12.5 để bắn phá đảo Wake vào ngày 3 tháng 9, sau đó đi đến Eniwetok vào ngày 6 tháng 9. Nó rời Saipan để tham gia bắn phá đảo Marcus vào ngày 9 tháng 10 trước khi gia nhập Đội Đặc nhiệm 38.1 thực hiện các cuộc không kích lên Luzon và Samar để hỗ trợ cho các hoạt động tại Leyte cũng như truy tìm lực lượng đối phương sau trận chiến vịnh Leyte trong các ngày 25 và 26 tháng 10.

1945

Từ ngày 8 tháng 11 năm 1944 đến ngày 21 tháng 2 năm 1945, Chester hoạt động từ Ulithi và Saipan trong việc bắn phá Iwo Jima và quần đảo Bonin nhằm hỗ trợ cho các cuộctấn công đổ bộ vào ngày 19 tháng 2.

Sau một đợt đại tu khác tại Bờ Tây, Chester quay trở lại Ulithi vào ngày 21 tháng 6 và tiến hành các cuộc tuần tra ngoài khơi Okinawa từ ngày 27 tháng 6 cũng như hỗ trợ các hoạt động quét mìn ở phía Tây hòn đảo này. Vào cuối tháng 7, Chester được điều về lực lượng hỗ trợ trên không cho Đội Đặc nhiệm 95.2, lực lượng tấn công bờ biển ngoài khơi Đồng bằng sông Dương Tử và bảo vệ hoạt động quét mìn. Trong tháng 8, nó thực hiện một chuyến đi đến quần đảo Aleut, vào ngày cuối cùng của tháng này nó lên đường tham gia cuộc đổ bộ chiếm đóng Ominato, Aomori, Hakodate và Otaru trong tháng 9 và tháng 10.

Sau chiến tranh

Chester nhận lên tàu binh lính đang trú đóng tại Iwo Jima, và khởi hành vào ngày 2 tháng 11 hướng về San Francisco, và đến nơi vào ngày 18 tháng 11. Nó thực hiện một chuyến đi khác đến Guam để đưa về nhà các cựu chiến binh từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 17 tháng 12, rồi tiếp tục hành trình vào ngày 14 tháng 1 năm 1946 để hướng sang vùng bờ Đông Hoa Kỳ, đi đến Philadelphia vào ngày 30 tháng 1.

Chester được cho xuất biên chế và đưa về lực lượng dự bị tại Philadelphia vào ngày 10 tháng 6 năm 1946. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3 năm 1959, và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 11 tháng 8 năm 1959.

Phần thưởng

Chester được tặng thưởng 11 Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Bộ sưu tập

Tập tin:USS Chester (CA-27) Hampton Roads 1930.jpg|_Chester_ vào lúc hoàn tất, năm 1930 Tập tin:USS Chester (CA-27) Aug 1942.jpg|_Chester_ vào tháng 8 năm 1942 Tập tin:USS Chester (CA-27) Oct 1943.jpg|_Chester_ vào tháng 10 năm 1943 sau khi sửa chữa những hư hại bởi ngư lôi Tập tin:USS Chester (CA-27) off San Francisco in May 1944 (19-N-73468).jpg|_Chester_ được sơn màu ngụy trang, năm 1944 Tập tin:USS Chester (CA-27) May 1945.jpg|_Chester_ với cả hai cột ăn-ten được cắt bỏ, năm 1945 Tập tin:USS Chester (CA-27) 1959.jpg|_Chester_ trên đường đi đến xưởng tháo dỡ, năm 1959
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Chester_ (CL/CA-27)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Chester**_, theo tên thành phố Chester, Pennsylvania. * USS _Chester_ (CL-1) là một tàu tuần dương hạng nhẹ phục vụ từ năm
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**USS _Rochester_ (CA-124)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Oregon City_ được đưa ra hoạt động sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ
**USS _Portland_ (CL/CA–33)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc . Nó là chiếc tàu chiến đầu
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Laffey_ (DD-724)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Walke_ (DD-416)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Hammann_ (DD-412)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Chenango_ (ACV/CVE/CVHE-28)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Reid_ (DD-369)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Hank_ (DD-702)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Alvin C. Cockrell_ (DE-366)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _O'Brien_ (DD-725)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**USS _Edmonds_ (DE-406)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Menhaden_ (SS-377)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu
**USS _Lansdowne_ (DD-486)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Seahorse_ (SS-304)** là một từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**_Phi công siêu đẳng Maverick_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Top Gun: Maverick_**) là một bộ phim chính kịch hành động của Hoa Kỳ được phát hành vào năm 2022. Bộ phim được đạo diễn bởi
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**Cuộc đổ bộ chiếm đóng Tulagi**, diễn ra vào ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1942, là một phần của Chiến dịch Mo, chiến lược của đế quốc Nhật Bản tại khu vực Nam
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
**Trận Tarawa** là một trận đánh giữa lực lượng Hoa Kỳ và Nhật Bản ở Tarawa của Quần đảo Gilbert, diễn ra từ ngày 20 tháng 11 tới ngày 23 tháng 11 năm 1943. Tarawa
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall** từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, là các chiến dịch chiến lược quan trọng của Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
**HMS _Archer_ (D78)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _ Long Island_ được chế tạo tại Hoa Kỳ trong những năm 1939–1940 và được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến