✨USS Missouri (BB-63)

USS Missouri (BB-63)

USS Missouri (BB-63) (tên lóng "Mighty Mo" hay "Big Mo") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang Missouri. Missouri là chiếc thiết giáp hạm cuối cùng mà Hoa Kỳ hoàn tất và là địa điểm ký kết văn kiện đầu hàng vô điều kiện của Đế quốc Nhật Bản, kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai.

Missouri được đặt hàng vào năm 1940 và được đưa vào hoạt động vào tháng 6 năm 1944. Tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nó tham gia các trận đánh Iwo Jima và Okinawa cũng như nả đạn pháo xuống các hòn đảo chính quốc Nhật Bản. Sau Thế chiến 2, Missouri tham gia chiến tranh Triều Tiên từ năm 1950 đến năm 1953. Nó được cho là ngừng hoạt động vào năm 1955 và được đưa về hạm đội dự bị Hải quân Mỹ, nhưng sau đó được đưa trở lại hoạt động và được hiện đại hóa vào năm 1984 như một phần của kế hoạch 600 tàu chiến Hải quân thời Tổng thống Ronald Reagan và đã tham gia chiến đấu năm 1991 trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh.

Missouri nhận được tổng cộng mười một ngôi sao chiến đấu cho các hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Vùng Vịnh, cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1992, nhưng vẫn được giữ lại trong Danh bạ Hải quân cho đến khi tên nó được gạch bỏ vào tháng 1 năm 1995. Đến năm 1998 nó được trao tặng cho hiệp hội "USS Missouri Memorial Association" và trở thành một tàu bảo tàng tại Trân Châu Cảng, Hawaii.

Thiết kế và chế tạo

Missouri là một trong số các "thiết giáp hạm nhanh" lớp Iowa được thiết kế vào năm 1938 bởi Chi nhánh Thiết kế Sơ thảo của Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa. Nó được hạ thủy ngày 29 tháng 1 năm 1944 và được đưa vào hoạt động vào ngày 11 tháng 6. Đây là chiếc tàu thứ ba trong lớp Iowa, nhưng là chiếc thứ tư và là chiếc cuối cùng thuộc lớp Iowa được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ. Vào lúc chiếc Missouri được đưa vào hoạt động, hai chiếc thiết giáp hạm khác thuộc lớp Iowa là chiếc USS Illinois và chiếc USS Kentucky còn đang được chế tạo, và Hải quân Hoa Kỳ đang có kế hoạch cho những chiếc thiết giáp hạm khác thuộc lớp Montana; tuy nhiên, IllinoisKentucky bị ngưng lại trước khi việc chế tạo chúng hoàn thành, còn những chiếc Montana bị tạm ngưng và cuối cùng bị hủy bỏ trước khi có bất kỳ lườn tàu nào được đặt. Trên thế giới, có thêm hai thiết giáp hạm nữa ra đời sau chiếc Missouri: chiếc thiết giáp hạm Anh Quốc HMS Vanguard, chiếc thiết giáp hạm cuối cùng được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo; và chiếc thiết giáp hạm Pháp Jean Bart. Con tàu được đỡ đầu lúc hạ thủy bởi Mary Margaret Truman, con gái của Harry S. Truman, lúc đó còn là một Thượng nghị sĩ của tiểu bang Missouri.

Dàn pháo chính của Missouri bao gồm chín khẩu pháo 406 mm (16 in) 50 cal. Mark 7 có khả năng bắn đạn xuyên thép nặng 1.200 kg (2.700 lb) đi xa được khoảng 32 km (20 dặm). Pháo hạng hai bao gồm hai mươi khẩu /38-caliber đa dụng bố trí trong các tháp súng đôi, có tầm bắn khoảng 14,5 km (9 dặm). Với sự ra đời của không lực, và yêu cầu chiếm lấy và duy trì ưu thế trên không đòi hỏi phải bảo vệ hạm đội các tàu sân bay Đồng Minh đang ngày càng lớn mạnh, Missouri được trang bị một loạt các pháo phòng không Bofors 40 mm/56 caliber và Oerlikon 20 mm/70 caliber để bảo vệ các tàu sân bay khỏi bị máy bay đối phương không kích. Khi Missouri tái hoạt động và được hiện đại hóa vào năm 1984, các khẩu pháo phòng không 20 mm và 40 mm của nó được tháo dỡ, và được thay thế bằng hệ thống vũ khí Phalanx CIWS nhằm bảo vệ chống lại tên lửa và máy bay đối phương, và các bệ phóng tên lửa bọc thép và bệ phóng tên lửa bốn nòng được thiết kế lần lượt để phóng tên lửa Tomahawk và Harpoon.

Missouri là chiếc thiết giáp hạm Hoa Kỳ cuối cùng được hoàn tất. Chiếc thiết giáp hạm USS Wisconsin (BB-64), thiết giáp hạm có số hiệu cao nhất được chế tạo, lại được hoàn tất trước chiếc Missouri; còn những chiếc mang số hiệu BB-65 đến BB-71 đã được đặt hàng nhưng bị hủy bỏ.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Chạy thử máy

Sau các chuyến đi thử máy ngoài khơi New York và thực hành tác chiến tại vịnh Chesapeake, Missouri rời Norfolk, Virginia ngày 11 tháng 11 năm 1944, đi qua kênh đào Panama ngày 18 tháng 11 và hướng đến San Francisco để được trang bị lần cuối cùng như một kỳ hạm của hạm đội. Nó rời vịnh San Francisco ngày 14 tháng 12 và đi đến Trân Châu Cảng, Hawaii vào ngày 24 tháng 12 năm 1944.

Lực lượng Đặc nhiệm 58, Đô đốc Mitscher

Chiếc thiết giáp hạm rời Hawaii ngày 2 tháng 1 năm 1945 và đi đến Ulithi thuộc phía Tây quần đảo Caroline vào ngày 13 tháng 1 năm 1945. Tại đây nó tạm thời được sử dụng làm soái hạm của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher. Chiếc tàu chiến ra khơi ngày 27 tháng 1, làm nhiệm vụ bảo vệ cho đội đặc nhiệm của tàu sân bay Lexington trong đội hình Lực lượng Đặc nhiệm 58 của Đô đốc Mitscher. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1945, các tàu sân bay của đội đặc nhiệm này đã tung ra các đợt không kích nhắm vào chính quốc Nhật Bản, đợt không kích đầu tiên kể từ cuộc ném bom huyền thoại Doolittle, vốn được tung ra từ tàu sân bay USS Hornet vào tháng 4 năm 1942. Vết đâm vào sườn con tàu chiến vẫn còn lại cho đến ngày hôm nay.

Vào lúc 23 giờ 05 phút ngày 17 tháng 4 năm 1945, Missouri phát hiện một tàu ngầm đối phương cách đội hình của nó 22 km (12 hải lý). Báo cáo của nó đã dẫn đến một chiến dịch tìm và diệt được thực hiện bởi tàu sân bay hạng nhẹ USS Bataan cùng bốn khu trục hạm, mà sau đó đã đánh chìm được chiếc tàu ngầm Nhật I-56. Nó rời cảng vào ngày 21 tháng 5, và đến ngày 27 tháng 5 lại tiếp tục nhiệm vụ bắn phá các vị trí của quân Nhật trên bờ tại Okinawa. Missouri giờ đây dẫn đầu Đệ Tam hạm đội trong việc tấn công các sân bay và căn cứ trên đảo Kyūshū vào các ngày 2 và 3 tháng 6. Nó vượt qua được một cơn bão khốc liệt trong các ngày 5 và 6 tháng 6 vốn đã làm bung mũi tàu chiếc tàu tuần dương USS Pittsburgh. Một số cấu trúc bên trên bị vỡ, nhưng Missouri không bị thiệt hại nào đáng kể. Hạm đội của nó tiếp tục tấn công vào Kyūshū vào ngày 8 tháng 6, rồi sau đó phối hợp một đòn tấn công kết hợp mặt biển và trên không mạnh mẽ trước khi rút lui về phía Leyte. Nó về đến San Pedro, Leyte, vào ngày 13 tháng 6 năm 1945, sau gần ba tháng hoạt động liên tục hỗ trợ cho chiến dịch Okinawa.

Trong suốt buổi lễ, sàn tàu chiếc Missouri được trang hoàng chỉ với hai lá cờ Hoa Kỳ. Một chiếc đã được treo trên kỳ hạm của Phó đề đốc Hải quân Matthew Perry vào những năm 1853 – 1854 khi hạm đội của ông tiến vào vịnh Tokyo nhằm thúc ép Nhật Bản mở cửa các cảng biển để trao đổi thương mại với thế giới. Lá cờ này thực ra đã được treo lộn ngược, với các ngôi sao bên góc phải bên trên, vì lá cờ lịch sử này đang trong tình trạng rất mong manh đến nỗi các nhà bảo tồn tại Bảo tàng Học viện Hải quân chỉ định rằng phải có một tấm bìa bảo vệ được khâu vào phía sau nó, khiến cho nó chỉ có thể trưng bày ở "mặt trái"; và đó là cách mà lá cờ 31 ngôi sao của Perry được trình bày trong dịp đặc biệt này. Lá cờ Mỹ kia đến từ chiếc thiết giáp hạm khi nó buông neo trong vịnh Tokyo; và nó chỉ là "...một lá cờ bình thường của binh lính Mỹ."

Đến 09 giờ 30 phút, phái đoàn Nhật Bản rời tàu. Trưa ngày 5 tháng 9, Đô đốc Halsey chuyển cờ hiệu của mình sang thiết giáp hạm USS South Dakota, và sáng sớm ngày hôm sau Missouri rời vịnh Tokyo. Như là một phần của chiến dịch Magic Carpet (Chiếc Thảm Thần), nó nhận lên tàu những hành khách quay trở về nhà tại Guam, rồi đi mà không cần hộ tống đến Hawaii. Nó đến Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 9 và treo cờ hiệu của Đô đốc Admiral Nimitz vào buổi xế trưa ngày 28 tháng 9 trong một buổi tiếp đón. nhỏ|trái|Missouri bị tai nạn mắc cạn vào sáng sớm ngày [[17 tháng 1 năm 1950.]] Missouri đến Rio de Janeiro vào ngày 30 tháng 8 năm 1947 để tham dự Hội nghị Liên Mỹ về Giữ gìn Hòa bình và An ninh Tây bán cầu. Tổng thống Truman lên tàu vào ngày 2 tháng 9 trong buổi lễ chào mừng việc ký kết Hiệp ước Rio, vốn mở rộng Học thuyết Monroe bằng cách ước định rằng bất kỳ một sự tấn công lên một quốc gia châu Mỹ tham gia hiệp ước đề được xem như là sự tấn công vào tất cả các nước trong khối.

Là chiếc thiết giáp hạm duy nhất hoạt động vào lúc đó, Missouri khởi hành từ Hampton Roads tiến hành một chuyến đi huấn luyện vào sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1950, khi nó bị mắc cạn cách Thimble Shoals Light gần Old Point Comfort 3 km (1,6 dặm). Nó đi vào một khoảng nước nông cách luồng chính khoảng ba lần chiều dài thân tàu. Bị nhấc lên khoảng 2 m (7 ft) trên mực ngấn nước, nó bị mắc cạn sâu và nhanh. nhưng đã nhanh chóng yêu cầu lực lượng Mỹ đóng tại Nhật Bản tiến vào Hàn Quốc. Truman cũng gửi lực lượng đặt căn cứ tại Hoa Kỳ, xe tăng, máy bay tiêm kích và máy bay ném bom cùng một lực lượng hải quân mạnh sang Triều Tiên để hỗ trợ Đại Hàn dân quốc. Như là một phần của lực lượng hải quân được huy động, Missouri được triệu tập từ Hạm đội Đại Tây Dương, và đã rời Norfolk ngày 19 tháng 8 để hỗ trợ lực lượng Liên Hợp Quốc trên bán đảo Triều Tiên.

Hơn nữa, đã có những cuộc trao đổi giữa các chỉ huy của lực lượng Liên Hợp Quốc, đáng kể là với tướng Douglas MacArthur, về khả năng một chiến dịch chống lại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhằm can ngăn lực lượng Liên Hợp Quốc không tiêu diệt toàn bộ lực lượng Triều Tiên, Trung Quốc đã ra công hàm ngoại giao cảnh báo rằng họ sẽ sử dụng vũ lực để tự bảo vệ, nhưng những cảnh báo này đã không được xem xét nghiêm túc do một số lý do, trong đó có một thực tế là Trung Quốc không có được sự yểm trợ trên không cho một cuộc tấn công như vậy. Mọi việc thay đổi đột ngột vào ngày 19 tháng 10 năm 1950, khi các đơn vị đầu tiên của một lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc lên đến 380.000 người dưới quyền chỉ huy của tướng Bành Đức Hoài vượt biên giới tiến vào CHDCND Triều Tiên, tung ra một cuộc tấn công toàn diện vào lực lượng Liên Hợp Quốc. Cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ đối với lực lượng Liên Hợp Quốc, khiến họ nhận ra thế bị động, và lập tức tiến hành một cuộc triệt thoái khẩn cấp. Các phương tiện được điều đến để yểm trợ cuộc triệt thoái này, và như là một phần của lực lượng đặc nhiệm yểm trợ cuộc rút lui, Missouri di chuyển đến Hungnam vào ngày 23 tháng 12 để bắn phá yểm trợ bên ngoài chu vi phòng thủ Hungnam cho đến khi đơn vị Liên Hợp Quốc cuối cùng, Sư đoàn 3 Bộ binh, được sơ tán bằng đường biển vào ngày 24 tháng 12 năm 1950. Nó quay về Norfolk ngày 3 tháng 8 và rời cảng ngày 23 tháng 8 để được cho ngưng hoạt động tại bờ Tây lục địa Mỹ. Sau khi ghé qua Long Beach và San Francisco, Missouri đến Seattle vào ngày 15 tháng 9 năm 1954. Ba ngày sau nó vào Xưởng Hải quân Puget Sound, nơi nó được cho ngưng hoạt động vào ngày 26 tháng 2 năm 1955, và gia nhập nhóm Bremerton thuộc Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Trong quá trình hiện đại hóa, Missouri được tháo dỡ các loại vũ khí lạc hậu: pháo phòng không Oerlikon 20 mm và Bofors 40 mm cùng bốn tháp pháo 127 mm (5 inch).

Trong nhiều tháng tiếp theo sau, con tàu được nâng cấp với những vũ khí tiên tiến nhất có được thời đó, trong đó có bốn dàn phóng bốn nòng MK 141 dành cho 16 tên lửa đối hạm AGM-84 Harpoon, tám Dàn phóng bọc thép (ABL) dành cho 32 tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk và bốn dàn pháo Gatling Phalanx thuộc Hệ thống vũ khí tầm gần (CIWS) để phòng thủ chống lại máy bay và tên lửa đối hạm của đối phương. Missouri chính thức tái hoạt động tại San Francisco, California vào ngày 10 tháng 5 năm 1986. Bộ trưởng Quốc phòng Casper W. Weinberger tuyên bố trước một cử tọa gồm 10.000 trong buổi lễ đánh dấu con tàu tái hoạt động: "Đây là ngày đánh dấu sự hồi sinh của sức mạnh trên biển của Hoa Kỳ." Ông chỉ thị cho thủy thủ đoàn "Lắng nghe bước chân của những người đi trước các bạn. Họ nói với các bạn về danh dự và tầm quan trọng của nghĩa vụ. Họ nhắc nhở bạn về các truyền thống của chính bạn." Thủy thủ đoàn đang xếp hàng danh dự khi chiếc Missouri chính thức tái hoạt động tại San Francisco, California Bốn tháng sau, Missouri rời cảng nhà mới là Long Beach thực hiện chuyến du hành vòng quanh Trái Đất, ghé qua Hawaii, Australia và Tasmania, Diego Garcia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Panama. Missouri trở thành chiếc thiết giáp hạm đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất kể từ khi Hạm đội Trắng Vĩ đại của Theodore Roosevelt thực hiện điều này 80 trước đó, một hạm đội có cả chiếc BB-11, thiết giáp hạm đầu tiên mang tên USS Missouri. Các vũ khí cỡ nòng nhỏ này được trang bị do mối đe dọa từ các con tàu thuốc lá Boghammar chế tạo tại Thụy Điển được Iran sử dụng trên vịnh Ba Tư vào lúc đó. Ngày 25 tháng 7 năm 1987, bắt đầu thực hiệm một đợt hoạt động kéo dài sáu tháng tại Ấn Độ Dương và phía Bắc biển Ả Rập. Nó trải qua hơn 100 ngày hoạt động liên tục ngoài biển trong một môi trường căng thẳng và nóng bỏng, tương phản với sự bình lặng của chuyến đi vòng quanh thế giới trước đó. Như là hạt nhân của Đội tàu chiến Echo, Missouri hộ tống các đoàn tàu chở dầu đi ngang qua eo biển Hormuz, tập trung hệ thống kiểm soát hỏa lực của nó vào các dàn phóng tên lửa Silkworm của Iran bố trí dọc theo bờ biển. Missouri quay về Hoa Kỳ ngang qua Diego Garcia, Australia và Hawaii vào đầu năm 1988. Nhiều tháng sau, Missouri một lần nữa hướng về vùng biển Hawaii tham gia các cuộc tập trận Vòng đai Thái Bình Dương (RimPac), với lực lượng lên đến 50.000 người và tàu chiến đến từ hải quân các nước Australia, Canada, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Nó đã thăm các cảng Vancouver và Victoria tại Canada, San Diego, Seattle và Bremerton trong năm 1988. Chiếc thiết giáp hạm đã tiến hành bắn phá vào các lực lượng Iraq đang phòng thủ bờ biển chiếm đóng Kuwait vào đêm 3 tháng 2, bắn 112 quả đạn 406 mm trong ba ngày tiếp theo sau cho đến khi được thay phiên bởi chiếc thiết giáp hạm chị em USS Wisconsin. Missouri sau đó bắn thêm 60 quả đạn ngoài khơi Khafji trong các ngày 11 và 12 tháng 2 trước khi di chuyển lên phía Bắc đảo Faylaka. Sau khi các tàu quét mìn dọn sạch một lối đi ngang qua hệ thống phòng thủ của Iraq, Missouri bắn 133 phát đạn trong bốn đợt bắn phá ven bờ nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ nghi binh vào bờ biển Kuwait sáng ngày 23 tháng 2. trong khi quả còn lại bị bắn chặn bởi một tên lửa GWS-30 Sea Dart phóng đi từ tàu khu trục phòng không Anh Quốc HMS Gloucester

Missouri tại vịnh Ba Tư trong [[Chiến dịch Bão táp Sa mạc.]] Trong chiến tranh Vùng Vịnh, Missouri đã can dự vào một sự cố bắn nhầm cùng với tàu hộ tống lớp Oliver Hazard Perry USS Jarrett. Căn cứ vào báo cáo chính thức, vào ngày 25 tháng 2, khẩu pháo Phalanx của chiếc Jarrett đã bắn nhầm vào pháo sáng được Missouri bắn ra để phản công tên lửa đối phương, và những viên đạn lạc đã trúng phải chiếc Missouri, một viên xuyên qua vách ngăn và dính vào lối đi nội bộ trong tàu. Một viên khác bắn trúng ống khói và đi xuyên qua toàn bộ. Một thủy thủ trên chiếc Missouri bị thương nhẹ khi một mảnh vỡ văng trúng vào cổ. Tuy nhiên, những ai quen thuộc với tai nạn đều tỏ ra hoài nghi về báo cáo này, vì chiếc Jarrett đang ở khoảng cách trên 3 km (2 dặm) vào lúc đó, và đặc tính của pháo sáng bình thường không thể khiến pháo Phalanx xem nó là một mối đe dọa và đánh chặn. Không có gì phải bàn cãi là các quả đạn bắn trúng chiếc Missouri là của chiếc Jarrett, và đây là một tai nạn. Mối nghi ngờ là một xạ thủ pháo Phalanx trên chiếc Jarrett có thể đã bắn vài loạt bằng cách thủ công, cho dù không có chứng cứ nào cho giả thuyết này.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh, Missouri còn hỗ trợ lực lượng liên quân trong việc dọn mìn do phía Iraq thả xuống vịnh Ba Tư. Cho đến khi chiến tranh kết thúc Missouri đã phá hủy ít nhất 15 mìn. Vị chỉ huy cuối cùng của chiếc tàu chiến, Thuyền trưởng Albert L. Kaiss, ghi những dòng cuối cùng vào Nhật ký của con tàu:

USS Missouri canh phòng cạnh chiếc USS Arizona bị đánh chìm.

Missouri được giữ lại trong thành phần của hạm đội dự bị ở Xưởng Hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington, cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1995, khi nó được xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1998, Bộ trưởng Hải quân John H. Dalton ký văn bản trao tặng con tàu cho tổ chức phi lợi nhuận USS Missouri Memorial Association (MMA) ở Honolulu, Hawaii. Nó được kéo từ Bremerton ngày 23 tháng 5 đến cảng Astoria, Oregon, nơi nó được đặt trong luồng nước ngọt ở cửa sông Columbia để tiêu diệt và cạo sạch hàu nước mặn cùng rong biển bám vào lườn tàu khi ở Bremerton, Để giúp bảo vệ khỏi sự lo ngại này, Missouri được đặt lui lại và hướng về phía Bảo tàng Arizona, nên những ai tham gia các nghi lễ quân sự trên sàn tàu phía sau của chiếc Missouri không thể thấy được Bảo tàng Arizona. Quyết định hướng mũi chiếc Missouri vào Bảo tàng Arizona dự định truyền đạt ý niệm rằng Missouri giờ đây canh giữ những gì còn lại của chiếc thiết giáp hạm Arizona nên những ai cùng bị chôn theo Arizona giờ đây có thể an nghỉ.

Missouri không đạt được chuẩn để được đề nghị là Di tích Lịch sử Quốc gia

  • Dải băng Hoạt động Chiến đấu
  • Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân
  • Đơn vị Khen thưởng Xứng đáng
  • Dải băng Hải quân "E" với vành hoa Chiến trận E
  • Huân chương Phục vụ Trung Quốc
  • Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
  • Huân chương Chiến dịch châu Á-Thái Bình Dương với ba ngôi sao chiến dịch
  • Huân chương Chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ hai
  • Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân
  • Huân chương Phục vụ Bảo vệ Quốc gia cùng ngôi sao chiến dịch
  • Huân chương Phục vụ Triều Tiên với ngôi sao bạc phục vụ
  • Huân chương Lực lượng Quân đội Viễn chinh
  • Huân chương Phục vụ Đông Nam Á với hai ngôi sao chiến dịch
  • Dải băng Phục vụ Bố trí Biển với hai ngôi sao chiến dịch
  • Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Cộng hòa Hàn Quốc
  • Huân chương Phục vụ Liên Hợp Quốc
  • Huân chương Giải phóng Kuwait.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Missouri_ (BB-63)** (tên lóng "**Mighty Mo**" hay "**Big Mo**") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang
**USS _Alabama_ (BB-60)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ sáu của hải quân Mỹ mang cái tên này, nhưng chỉ là chiếc
**Mike Parson** (hay **Michael Lynn Parson**, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1955) là một chính trị gia người Mỹ, cựu quân nhân Lục quân Hoa Kỳ. Ông hiện là Thống đốc thứ 57 và
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**Matthew Calbraith Perry** (10 tháng 4 năm 1794– 4 tháng 3 năm 1858, New York) là Phó Đề đốc của Hải quân Hoa Kỳ. Ông được biết đến trong lịch sử vì đã chỉ huy
nhỏ|Vịnh Tokyo nhìn từ không gian nhỏ|Vịnh Tokyo, (màu hồng) và eo biển Uraga (màu xanh) là một vịnh nước ở phía nam vùng Kantō của Nhật Bản. Tên cũ của vịnh là . ##
**HMS _King George V_ (41)** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _King George V_ của năm 1939. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được
**Hạm đội 3 Hoa Kỳ/Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ** là một trong 5 hạm đội mang số của Hải quân Hoa Kỳ. Vùng trách nhiệm của Hạm đội 3 gồm 50 triệu dặm vuông
**Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản** là thoả thuận đầu hàng chính thức của Đế quốc Nhật Bản, đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai. Văn kiện này được
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
Ngày **11 tháng 6** là ngày thứ 162 (163 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 203 ngày trong năm. ## Sự kiện *884 – Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung ám sát
Tổng Lực lượng Hải quân châu Âu/**Hạm đội 6 Hoa Kỳ hoặc Đệ lục Hạm đội Hoa Kỳ** là một đơn vị hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ có tổng hành dinh trên Soái