✨Katori (lớp tàu tuần dương)

Katori (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Katori_ (tiếng Nhật: 香取型練習巡洋艦, Katori-gata renshū-junyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ban đầu được dự định như những tàu huấn luyện, chúng được sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai như tàu chỉ huy hải đội. Bốn chiếc được vạch kế hoạch nhưng chỉ có ba chiếc được hoàn tất, và chỉ có một chiếc còn sống sót sau chiến tranh.

Thiết kế

Lớp Katori được đặt hàng để hoạt động như những tàu huấn luyện trong Ngân sách Hải quân Bổ sung vào các năm 1937 và 1939. Tất cả chúng đều được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi tại Yokohama. Tuy nhiên, trong chiến tranh Thái Bình Dương của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng được sử dụng như là soái hạm quản lý cho nhiều hải đội khác nhau, như chỉ huy tàu ngầm hoặc các hải đội hộ tống. Chúng được nâng cấp khi chiến tranh tiếp diễn với các vũ khí phòng không bổ sung và mìn sâu chống tàu ngầm.

Lịch sử hoạt động

Katori (香取) được đưa vào hoạt động ngày 20 tháng 4 năm 1940. Nó được phân về Hạm đội 6 đặt căn cứ tại Kwajalein. Ngày 1 tháng 2 năm 1942, nó bị máy bay ném bom-ngư lôi từ tàu sân bay Enterprise tấn công và bị hư hại, buộc phải quay về Yokosuka để sửa chữa. Trong cuộc tấn công lên Truk vào các ngày 17-18 tháng 2 năm 1944, nó trúng phải một ngư lôi phóng từ máy bay. Vài giờ sau, nó lại bị tấn công và bị đánh chìm bởi hải pháo 406 mm (16 inch) của thiết giáp hạm Iowa và không có người nào sống sót.

Kashima (鹿島) được đưa vào hoạt động ngày 31 tháng 5 năm 1940. Từ tháng 12 năm 1941, nó là soái hạm của Hạm đội 4 đặt căn cứ tại Truk. Sang năm 1942 nó hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Rabaul, Kavieng, Tulagi và New Guinea. Cuối năm 1943 nó đảm trách vai trò huấn luyện tại Kure. Sau khi ở trong ụ tàu từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 1 năm 1944, nó hoạt động như một tàu vận chuyển, rồi được cải biến cho vai trò chống tàu ngầm vào cuối năm 1944. Sau chiến tranh nó được sử dụng trong việc hồi hương binh lính Nhật Bản ở nước ngoài, rồi bị tháo dỡ vào những năm 1946-1947.

Kashii (香椎) được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 7 năm 1941. Nó được phân công chiếm đóng Thái Lan và Malaya vào cuối năm 1941, và sang năm 1942 tham gia việc chiếm đóng Bắc Sumatra và Miến Điện. Vào năm 1943, nó thực hiện các chuyến đi vận chuyển binh lính và tiếp liệu. Đến năm 1944 nó được cải biến cho vai trò chống tàu ngầm. Vào ngày 12 tháng 1 năm 1945, nó bị máy bay Mỹ tấn công ngoài khơi Đông Dương, và bị đánh chìm sau khi trúng một quả ngư lôi và hai quả bom. Chỉ có 19 người trong số 621 thủy thủ đoàn được cứu sống.

Chiếc thứ tư trong lớp Kashiwara (橿原) bị hủy bỏ đang khi chế tạo.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Katori**_ (tiếng Nhật: 香取型練習巡洋艦, Katori-gata renshū-junyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ban đầu được dự định như những tàu huấn luyện, chúng
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
**_Kashima_** (tiếng Nhật: 鹿島) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai được hoàn tất trong lớp _Katori_ gồm ba chiếc. Tên của nó được
**_Kashii_** (tiếng Nhật:香椎) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba cũng là chiếc cuối cùng được hoàn tất trong lớp lớp _Katori_. Được đặt
**Lớp thiết giáp hạm _Katori**_ (香取型戦艦 - Katori-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Katori_ là những thiết giáp
**_Maikaze_** (tiếng Nhật: 舞風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Katori** () là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc thuộc thế hệ tiền-Dreadnought, được thiết kế và chế tạo
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-74_**, sau đổi tên thành **_I-174_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-73_** là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn,
**_I-72_**, sau đổi tên thành **_I-172_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**USS _Izard_ (DD-589)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Burns_ (DD-588)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Kashima** () là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Katori_ thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế và chế tạo bởi hãng Armstrong Whitworth tại xưởng đóng tàu Elswick,
**USS _Iowa_ (BB-61)** (biệt danh "The Big Stick") là thiết giáp hạm đầu tiên của lớp _thiết giáp hạm Iowa_ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên
**Lớp thiết giáp hạm _Satsuma**_ (薩摩型戦艦 - Satsuma-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Satsuma_ là những chiếc thiết
hay còn gọi là Kế hoạch "Vòng tròn ba" là kế hoạch thứ ba trong số bốn kế hoạch mở rộng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ giữa năm 1930 và bắt đầu
**Khẩu EOC 12 inch 45 li** là tên gọi chung cho một loạt các loại hải pháo 12-inch quấn dây được thiết kế và sản xuất bởi Công ty súng Elswick để trang bị
**Trận Borneo** là một chiến dịch thành công của các Lực lượng Đế quốc Nhật Bản nhằm kiểm soát hòn đảo Borneo và tập trung chủ yếu vào việc chinh phục Raj Sarawak, Brunei, Bắc
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ