✨Yamato (lớp thiết giáp hạm)
IJN Yamato () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên đến 72.000 tấn, đây là những chiến hạm lớn nhất, nặng nhất và trang bị vũ khí mạnh nhất từng được chế tạo tính tới thời điểm đó. Lớp này mang hải pháo lớn nhất từng được trang bị trên một tàu chiến: chín khẩu pháo 460 mm (18,1 inch), mỗi chiếc có thể bắn đạn pháo nặng 1.360 kg (2.998 lb) đi một khoảng cách 42 km (26 dặm). Hai thiết giáp hạm thuộc lớp này Yamato và Musashi được hoàn tất, trong khi chiếc thứ ba Shinano được cải biến thành một tàu sân bay khi được chế tạo.
Với những thông số ấn tượng và vỏ giáp và hỏa lực, lớp Yamato có thể đánh bại mọi chiếc thiết giáp hạm khác trong các trận đấu một chọi một. Nhưng không may cho lớp Yamato và các thiết giáp hạm nói chung, đó là chúng đã trở nên lỗi thời trước một loại tàu chiến mới là tàu sân bay. Máy bay ném bom từ tàu sân bay có thể tấn công một tàu chiến trong phạm vi vài trăm km, vượt xa tầm bắn của đại bác trên thiết giáp hạm (chỉ khoảng 40 km). Với chi phí đắt gấp 2,5 lần so với một tàu sân bay, lớp Yamato đã khiến nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản hao tổn rất nhiều nguồn lực, nhưng hiệu quả tác chiến của nó lại rất thấp so với tàu sân bay: chiếc Musashi đã bị máy bay đánh chìm khi chưa kịp giao chiến với chiếc tàu địch nào, còn chiếc Yamato chỉ tham gia được 1 trận hải chiến trước khi bị máy bay đánh chìm.
Do mối đe dọa của tàu ngầm và Tàu sân bay Mỹ, cả Yamato lẫn Musashi đều trải qua hầu hết thời gian hoạt động của nó tại các căn cứ hải quân ở Brunei, Truk và Kure, nhiều lần được huy động để đối phó các cuộc không kích của Mỹ xuống các căn cứ Quân đội Nhật Bản, trước khi tham gia Hải chiến vịnh Leyte, trong thành phần Lực lượng Trung tâm của Đô đốc Kurita. Musashi bị đánh chìm trên đường đi đến chiến trường bởi máy bay từ các tàu sân bay Mỹ. Shinano bị đánh chìm mười ngày sau khi được đưa vào hoạt động vào tháng 11 năm 1944 bởi tàu ngầm Mỹ Archer-Fish, trong khi Yamato bị đánh chìm vào tháng 4 năm 1945 trong Cuộc hành quân Ten-Go.
Vào lúc Đồng Minh sắp chiếm đóng Nhật Bản, các sĩ quan đặc vụ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã tiêu hủy hầu như toàn bộ các ghi chép, bản vẽ và hình ảnh trực tiếp hoặc có liên quan đến lớp Yamato, chỉ để lại một phần những ghi chép về đặc tính thiết kế và các vấn đề kỹ thuật khác. Việc tiêu hủy hiệu quả tới mức cho đến năm 1948, những hình ảnh duy nhất có được về Yamato và Musashi chỉ là những tấm được chụp bởi máy bay của Hải quân Hoa Kỳ tham gia tấn công hai chiếc thiết giáp hạm trên. Cho dù có những hình ảnh và thông tin trong các tài liệu không bị tiêu hủy dần dần được đưa ra ánh sáng trong những năm gần đây, việc mất mát hầu hết các tài liệu đã khiến việc nghiên cứu một cách sâu rộng lớp Yamato trở nên khó khăn. Thông tin về lớp tàu này chủ yếu thu lượm qua việc phỏng vấn các quan chức và sĩ quan hải quân sau khi Nhật Bản đầu hàng.
Thiết kế
Việc thiết kế lớp thiết giáp hạm Yamato được hình thành do xu hướng bành trướng của chính phủ Nhật Bản, các thế lực công nghiệp Nhật Bản, và nhu cầu về một hạm đội đủ mạnh để đe dọa các lực lượng chống đối có thể có.
Trong những năm 1930, giới cầm quyền Nhật Bản bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa quốc gia cực đoan kiểu quân phiệt. Họ cổ súy cho việc mở rộng Đế quốc Nhật Bản, bao gồm cả Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Việc một đế chế như vậy, trải dài 4.800 km (3.000 dặm) từ Trung Quốc đến đảo san hô vòng Midway, cần một hạm đội lớn để duy trì khả năng kiểm soát toàn bộ lãnh thổ của Đế quốc Nhật. Cho dù mọi chiếc thiết giáp hạm của Nhật Bản trước lớp Yamato đều được chế tạo trước năm 1921, tất cả chúng đều được tái cấu trúc hay hiện đại hóa đáng kể, hoặc cả hai, trong Thập niên 1930. Cùng với những đặc tính mới khác, việc này cho phép chúng có tốc độ và hỏa lực được tăng cường, điều mà Nhật Bản dự tính sử dụng trong việc chinh phục và duy trì đế chế mà họ khao khát. Khi Nhật Bản rút khỏi Hiệp ước Hải quân London vào năm 1934, họ không còn phải thiết kế tàu chiến trong những giới hạn của những hiệp định trước đây, và vì vậy được tự do chế tạo tàu chiến lớn hơn các thế lực hải quân chủ yếu khác.
nhỏ|trái|Hình vẽ chiếc Musashi như nó hiện hữu vào tháng 10 năm 1944
Khi Nhật Bản cần phải duy trì các thuộc địa cung cấp các nguyên liệu thiết yếu dẫn đến khả năng phải đối đầu với Hoa Kỳ, quốc gia này trở thành đối thủ tiềm tàng chủ yếu của Nhật. Tuy nhiên, Mỹ lại sở hữu một tiềm năng công nghiệp lớn hơn nhiều so với Nhật Bản, chiếm 32,2% sản lượng công nghiệp toàn thế giới so với 3,5% của Nhật Bản. Hơn nữa, nhiều nhà lãnh đạo trong Quốc hội Mỹ tuyên bố "sẽ áp đảo Nhật Bản bằng sức mạnh gấp ba lần trong cuộc chạy đua vũ trang hải quân". Vì vậy, nền công nghiệp Nhật Bản không thể nào hy vọng sẽ cạnh tranh lại được khả năng công nghiệp của Hoa Kỳ, Mỗi chiếc tàu chủ lực của Nhật phải có khả năng tiếp chiến với nhiều tàu chiến chủ lực đối phương cùng một lúc, làm giảm bớt nhu cầu sử dụng nguồn lực công nghiệp vào việc chế tạo tàu chiến như của Hoa Kỳ.
Các nghiên cứu ban đầu về một lớp thiết giáp hạm mới bắt đầu được tiến hành sau khi Nhật Bản rút khỏi Hội Quốc Liên và từ bỏ các cam kết trong các hiệp ước hải quân Washington và London. Từ năm 1934 đến năm 1936, 24 đề án sơ thảo đã được đưa ra. Các đề án ban đầu này khác nhau đáng kể về vũ khí, động lực, tầm hoạt động và vỏ giáp. Cỡ pháo chính dao động giữa 460 mm (18,1 inch) và 410 mm (16,1 inch), trong khi dàn pháo hạng hai kết hợp những số lượng khác nhau của các cỡ pháo 155 mm (6,1 inch), 127 mm (5 inch) và 25 mm. Trong hầu hết các bản thiết kế, động lực được lựa chọn là sự kết hợp lai giữa diesel- turbine hơi nước, chỉ có một phương án sử dụng động cơ diesel thuần túy và một thiết kế nữa chỉ dùng turbine. Tầm hoạt động được đề nghị thấp nhất là 11.000 km (6.000 hải lý) ở thiết kế A-140-J2 cho đến cao nhất là 17.000 km (9.200 hải lý) trong thiết kế A-140A và A-140-B2 ở tốc độ 33,3 km/h (18 knot). Độ dày lớp vỏ giáp cũng thay đổi cho phép bảo vệ con tàu chống lại hỏa lực của hải pháo từ 410 mm cho đến 460 mm.
Sau khi tất cả các đề án được xem xét, hai trong số chúng được cho là có khả năng hiện thực, A-140-F3 và A-140-F4. Khác biệt chủ yếu của chúng là ở tầm hoạt động 9.075 km (4.900 hải lý) so với 13.300 km (7.200 hải lý) ở vận tốc 29,6 km/h (16 knot), chúng được sử dụng trong việc nghiên cứu sơ bộ cuối cùng, vốn được hoàn tất vào ngày 20 tháng 7 năm 1936. Bản thiết kế cuối cùng được hoàn tất vào tháng 3 năm 1937, và được Chuẩn Đô đốc Fukuda Keiji chấp thuận. Trong thiết kế sau cùng này, tầm hoạt động lên đến 7.200 hải lý cuối cùng được chọn, và kiểu động lực lai diesel-turbine hơi nước bị loại bỏ để chọn turbine hơi nước. Động cơ diesel bị loại bỏ khỏi thiết kế do những vấn đề liên quan đến động cơ trên lớp tàu tiếp liệu tàu ngầm Taigei. mới giữ cho chúng hoạt động được.
Thiết kế cuối cùng có một trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 64.000 tấn và trọng lượng rẽ nước khi đầy tải là 69.988 tấn, làm cho chúng trở thành những thiết giáp hạm lớn nhất từng được thiết kế, và cũng là thiết giáp hạm lớn nhất từng được chế tạo. Vũ khí trang bị cho dàn pháo chính gồm chín khẩu hải pháo 460 mm (18 inch) gắn trên ba tháp pháo ba nòng, mỗi chiếc còn nặng hơn cả một tàu khu trục của những năm 1930. cho dù có nhiều sự phản đối từ các phi công hải quân, những người đã đòi hỏi phải chế tạo những tàu sân bay hơn là thiết giáp hạm. Ngay từ năm 1933, các phi công trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm Đô đốc Isoroku Yamamoto, đã tranh luận rằng cách tốt nhất để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của tàu sân bay Mỹ phải là một hạm đội tàu sân bay tương đương, chứ không phải là một hạm đội thiết giáp hạm. Tuy nhiên, khi cuộc tranh luận được đưa ra, các đô đốc lớn tuổi và bảo thủ đã cố giữ quan điểm truyền thống cho rằng thiết giáp hạm vẫn là tàu chiến chủ lực của hạm đội bằng cách ủng hộ cho việc chế tạo những chiếc siêu thiết giáp hạm thuộc lớp Yamato. Có tổng cộng năm chiếc thiết giáp hạm lớp Yamato được lên kế hoạch. Cho dù thành tàu được tháo dỡ, đáy tàu gồm hai lớp không bị tháo dỡ, mà sau đó việc chế tạo "bốn tàu ngầm cỡ lớn" được thực hiện bên trên đáy tàu này Chiếc thứ năm chưa bao giờ được đặt lườn. Cả tạp chí Jane's Fighting Ships lẫn giới báo chí phương Tây đều báo cáo sai về đặc tính của con tàu. Vào tháng 9 năm 1944, Jane's Fighting Ships liệt kê trọng lượng rẽ nước của cả Yamato lẫn Musashi là 45.000 tấn. Tương tự như vậy, cả tờ New York Times lẫn hãng thông tấn Associated Press đều cho là con tàu có lượng rẽ nước 45.000 tấn và đạt tốc độ 54 km/h (30 knot); ngay cả sau khi Yamato bị đánh chìm vào tháng 4 năm 1945, The Times ở London tiếp tục gán cho nó trọng lượng rẽ nước 45.000 tấn. Dù sao, sự hiện hữu của những con tàu này, và các đặc tính được dự đoán, đã ảnh hưởng lớn đến các kỹ sư hải quân Mỹ trong việc thiết kế lớp thiết giáp hạm Montana, khi cả năm chiếc đều được chế tạo để nhằm đối phó lại hỏa lực của lớp Yamato.
Yamato
nhỏ|phải|Yamato trong thời gian chế tạo Thiết giáp hạm Yamato được đặt hàng vào tháng 3 năm 1937, được đặt lườn vào ngày 4 tháng 11 năm 1937, được hạ thủy vào ngày 8 tháng 8 năm 1940, và được đưa vào hoạt động ngày 16 tháng 12 năm 1941. Trong hai năm tiếp theo sau, nó di chuyển qua lại giữa các căn cứ hải quân Truk và Kure, nhưng vai trò soái hạm của Hạm đội Liên hợp được chuyển cho con tàu chị em với nó là chiếc Musashi. Trong trận Trận chiến vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944, lần đầu tiên nhưng cũng là lần duy nhất, nó sử dụng dàn pháo chính nhắm vào tàu chiến đối phương, và đã đánh chìm tàu sân bay hộ tống USS Gambier Bay (CVE-73) và tàu khu trục hộ tống USS Johnston (DD-557) trước khi Lực lượng Trung tâm của Phó Đô đốc Kurita rút lui khỏi chiến trường. Bị thiệt hại nhẹ tại Kure trong tháng 3 năm 1945, con tàu được tái cấu trúc lần nữa qua việc nâng cấp hỏa lực phòng không.
Musashi
nhỏ|phải|Musashi rời Brunei vào tháng 10 năm 1944 Musashi được đặt hàng vào tháng 3 năm 1937, được đặt lườn ngày 29 tháng 3 năm 1938, hạ thủy ngày 1 tháng 11 năm 1940, và được đưa vào hoạt động ngày 5 tháng 8 năm 1942. Từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1942, nó tham gia các cuộc thực tập huấn luyện trên biển và phòng không tại Hashirajima. Ngày 11 tháng 2 năm 1943, Musashi thay thế chiếc tàu chị em với nó Yamato làm soái hạm cho Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Cho đến tháng 7 năm 1944, Musashi di chuyển qua lại giữa các căn cứ hải quân Truk, Yokosuka, Brunei và Kure. Ngày 29 tháng 3 năm 1944, chiếc thiết giáp hạm trúng phải một quả ngư lôi bắn ra từ tàu ngầm Mỹ Tunny và bị hư hại đáng kể gần mũi tàu. Sau khi sửa chữa và tái trang bị suốt tháng 4 năm 1944, Musashi gia nhập Hải đội Thiết giáp hạm 1 tại Okinawa.
Trong thành phần của Hạm đội 2, vào tháng 6 năm 1944, Musashi hộ tống các tàu sân bay Nhật trong Trận chiến biển Philippine. Musashi bị đánh chìm ngày 24 tháng 10 trong quá trình trận chiến biển Sibuyan, trúng phải 17 quả bom và 19 quả ngư lôi, tổn thất 1.023 người trong số 2.399 thành viên thủy thủ đoàn.
Shinano
nhỏ|phải|Shinano vào tháng 11 năm 1944 Vào tháng 6 năm 1942, sau thất bại của Nhật tại Midway, việc chế tạo chiếc thiết giáp hạm thứ ba của lớp Yamato được tạm ngưng, thân tàu được chuyển dần sang chế tạo một chiếc tàu sân bay. Được đặt tên là Shinano, nó được thiết kế như một tàu hỗ trợ với tải trọng 64.800 tấn, có khả năng chuyên chở, sửa chữa và tái trang bị máy bay cho các liên đội máy bay trên các tàu sân bay khác. Cho dù ban đầu con tàu được dự định sẽ đưa ra hoạt động vào đầu năm 1945, việc chế tạo Shinano được đẩy nhanh sau thất bại trong Trận chiến biển Philippine; kết quả là con tàu được hạ thủy ngày 5 tháng 10 năm 1944 và được đưa vào hoạt động khoảng hơn một tháng sau, 19 tháng 11. Chín ngày sau, Shinano rời Yokosuka di chuyển đến Kure. Và đang khi trên đường đi vào sáng sớm ngày 29 tháng 11, Shinano trúng phải bốn quả ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ Archer-Fish.
Đặc tính
Vũ khí
nhỏ|Hỏa lực phòng không được trang bị bên hông chiếc Yamato, như được mô phỏng bằng mô hình của con tàu tại [[Bảo tàng Yamato ở Kure.]] Cho dù dàn pháo chính của lớp Yamato ban đầu được chỉ định là pháo 40 cm/45 caliber (15,9 in) Kiểu 94, trong thực tế những chiếc tàu chiến được trang bị chín khẩu pháo 460 mm (18,1 in)/45 caliber, cỡ pháo lớn nhất từng được trang bị trên tàu chiến, Mỗi khẩu pháo dài 21,13 m (69 ft 4 in), nặng 147,3 tấn, có khả năng bắn đầu đạn nổ hay đạn xuyên thép xa 42 km (26 dặm/22,6 hải lý) ở tốc độ 1½ đến 2 quả mỗi phút. Một kíp nổ định thời gian được sử dụng để định khoảng cách bao xa trước khi quả đạn sẽ phát nổ, và chúng thường được đặt để cho nổ ở khoảng cách 1.000 m. Khi được kích nổ, mỗi quả đạn sẽ cho bung ra khoảng 900 ống chứa đầy chất cháy trong một chóp hình nón 20° hướng về phía máy bay đối phương; một khối thuốc nổ sẽ được sử dụng để phá vỡ bản thân vỏ đạn tạo ra thêm nhiều mảnh thép, và rồi các ống được kích nổ. Ống sẽ được đốt cháy trong năm giây ở nhiệt độ 3.000 °C (5.400 °F) khởi sự một vệt lửa kéo dài 5 m (16 ft 4 in). Cho dù chúng chiếm đến 40% tổng cơ số đạn pháo chính vào năm 1944, thực ra, một quả đạn loại này có thể đã phát nổ sớm và làm tê liệt một khẩu pháo trên chiếc Musashi trong trận chiến biển Sibuyan. 24 khẩu pháo 127 mm (5 inch),
Vũ khí trang bị cho Shinano khác biệt đáng kể so với những chiếc tàu chị em với nó do việc cải biến. Vì chiếc tàu sân bay được thiết kế nhằm vai trò hỗ trợ, hỏa lực phòng không của nó được tăng cường một cách đáng kể: 16 khẩu 127 mm (5 inch), 125 súng phòng không 25 mm (1 inch), Tuy nhiên, dàn hỏa lực trên chưa từng được sử dụng chống lại tàu chiến hay máy bay đối phương. Vỏ giáp sàn tàu dày 75 mm (3 inch) làm từ một loại hợp kim nickel-chromium-molybdenum. Các thử nghiệm đạn đạo tại bãi thử ở Kamegabuki cho thấy vỏ giáp sàn tàu bằng hợp kim tốt hơn thép tấm Vicker đồng nhất khoảng 10-15%. Bằng kỹ thuật này, đai giáp bên dưới, vốn được trang bị cho các con tàu sau các thử nghiệm tác xạ trên lớp thiết giáp hạm Tosa cùng ngư lôi mới Nhật Bản Kiểu 91 có thể di chuyển một quãng đường dài dưới nước, được sử dụng để gia cố cấu trúc của toàn bộ thân tàu. Đặc biệt đáng kể là sự liên kết yếu kém giữa hai lớp đai giáp trên và dưới tạo ra một điểm yếu ngay bên dưới mực nước, khiến cho lớp tàu này dễ bị thiệt hại do ngư lôi ném từ trên không. Giống như số phận của những tài liệu liên quan đến lớp Yamato, đa số tài liệu và mọi kế hoạch liên quan đến dự án này đều bị tiêu hủy vào giai đoạn kết thúc chiến tranh. Người ta chỉ được biết rằng thiết kế cuối cùng của những tàu chiến này có hỏa lực mạnh hơn so với lớp Yamato, dàn pháo chính gồm sáu khẩu 510 mm (20 inch) bố trí trên ba tháp pháo đôi, trong khi pháo hạng hai gồm "nhiều" khẩu 100 mm (4 inch). Lượng rẽ nước của con tàu có lẽ tương đương với Yamato, trong khi đai giáp hông của con tàu được thiết kế dày 460 mm (18,1 inch).
Yamato, và đặc biệt là câu chuyện về sự đánh chìm nó, đã xuất hiện trên nhiều trong văn hóa đại chúng Nhật, ví dụ như phim hoạt hình Space Battleship Yamato và bộ phim Yamato năm 2005. Sự hiện diện trong văn hóa đại chúng thường trình bày chuyến đi hành động cuối cùng của con tàu như là nỗ lực dũng cảm, quên mình nhưng vô ích và có tính tượng trưng của những thủy thủ Nhật Bản xả thân bảo vệ quê hương họ. Một trong những lý do khiến chiếc tàu chiến có ảnh hưởng lớn đến như thế là do chữ "Yamato" (Đại Hòa) thường được sử dụng như một tên thơ ca của Nhật Bản. Do đó, sự kết liễu chiếc thiết giáp hạm Yamato là một ẩn dụ cho sự kết thúc của Đế quốc Nhật Bản.