✨Normandie (lớp thiết giáp hạm)

Normandie (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Normandie_ là những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Pháp đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt tên theo những tỉnh của nước Pháp, chúng đã không thể hoàn tất do hoàn cảnh chiến tranh buộc phải ngưng việc chế tạo. Một số đề nghị tái cấu trúc chúng được đưa ra sau chiến tranh, nhưng sau cùng chúng bị tháo dỡ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington. Chỉ có một chiếc, Béarn, được hoàn tất như một tàu sân bay.

Thiết kế

Lớp Normandie được chấp thuận theo Đạo luật Hải quân Pháp ngày 30 tháng 3 năm 1912, và việc đặt hàng bốn chiếc được thực hiện trong những năm 1912-1913. Chiếc thứ năm, Béarn, được chấp thuận vào ngày 3 tháng 12 năm 1913, để đảm bảo rằng một hải đội bao gồm bốn chiếc luôn luôn sẵn sàng hoạt động.

Đặc tính nổi bật nhất trong thiết kế là việc áp dụng tháp pháo bốn nòng vào lúc mà tháp pháo nòng đôi rất phổ biến và tháp pháo ba nòng vẫn còn hiếm. Việc tập trung dàn pháo chính trên ít tháp pháo hơn sẽ tiết kiệm được trọng lượng. Dàn pháo chính bao gồm mười hai khẩu pháo 340 mm có thể so sánh tốt với lớp Iron Duke của Anh Quốc vốn vừa được hạ thủy vào lúc mà Normandie được đặt hàng, nhưng sẽ bị vượt qua bởi kiểu pháo 380 mm (15 inch) sẽ được đưa vào sử dụng trên những thiết giáp hạm mới hơn của Anh và Đức.

Vỏ giáp của lớp tàu này, lên đến 300 mm (11,8 inch) ở chỗ dày nhất, so sánh được một cách rộng rãi với những con tàu khác cùng thế hệ. Bốn chiếc đầu tiên trong lớp được thiết kế với hệ thống động lực kết hợp cả turbine hơi nước dành cho tốc độ và động cơ hơi nước ba buồng bành trướng để di chuyển đường trường; một cách sắp xếp giúp tiết kiệm nhiên liệu khi di chuyển ở tốc độ chậm. Riêng thiết kế của Béarn dự định chuyển hoàn toàn sang động cơ turbine. Tuy nhiên, cuối cùng Béarn vẫn được trang bị động cơ hỗn hợp giống như những chiếc còn lại trong lớp. Tốc độ thiết kế khi sử dụng khi sử dụng cả động cơ hơi nước và turbine là 21,5 knot, tương đương với lớp thiết giáp hạm Bretagne trước đó mà chúng dự định để hoạt động phối hợp.

Số phận

Công việc chế tạo lớp Normandie bị tạm ngừng do việc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, vì mọi nguồn lực được dành cho nhu cầu của Lục quân. Bốn chiếc đầu tiên đã được đóng đến mức được cho hạ thủy, nhưng cũng chỉ nhằm dành chỗ trống trên ụ tàu cho những mục đích khác. Một số nồi hơi dự định dành cho chúng được trang bị cho các tàu phóng lôi; và một số pháo hạng nặng được sử dụng cho pháo binh mặt đất, bao gồm một số bị Đức chiếm và sử dụng chống lại lực lượng Pháp; một số khác được sử dụng để thay thế cho các khẩu pháo bị hao mòn trên những chiếc thuộc lớp Bretagne.

Sau khi chiến tranh kết thúc, đã có một số đề nghị tái cấu trúc được đưa ra theo một thiết kế mới, theo đó tốc độ sẽ đạt được 24 knot, cải tiến hệ thống điều khiển hỏa lực, nâng cấp vỏ giáp và các khẩu pháo sẽ biến chúng thành những tàu chiến hiện đại hữu ích. Người ta cũng đề nghị trang bị cho Béarn hệ thống động lực turbine mới để đạt được tốc độ 25 knot và có thể là dàn pháo chính 16 inch hoàn toàn mới. Tuy nhiên những đề nghị này tỏ ra quá tốn kém. Khi mà hầu hết tàu chiến Hải quân Đức đã bị đánh đắm và Ý sẵn lòng từ bỏ việc chế tạo lớp thiết giáp hạm Caracciolo mới nhất, người ta dễ dàng quyết định ký kết Hiệp ước Hải quân Washington và tiết kiệm được chi phí hoàn tất những con tàu. Bốn chiếc đầu tiên được tháo dỡ trong những năm 1924-1929; riêng Béarn được giữ lại thoạt tiên là để thử nghiệm với máy bay và sau đó là một tàu sân bay. Bị ngăn trở bởi tốc độ chậm, nó không phải là một tàu sân bay thành công, nhưng vẫn được giữ lại phục vụ cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau khi gia nhập lực lượng Pháp Tự do, nó phục vụ cùng lực lượng Đồng Minh trong vai trò vận chuyển máy bay cho đến hết chiến tranh.

Những chiếc trong lớp

Những hình ảnh

Tập Tập
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Normandie**_ là những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Pháp đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt tên theo những tỉnh của nước Pháp,
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp thiết giáp hạm _Lyon**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Pháp vạch kế hoạch trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất bắt đầu từ năm 1914. Tuy nhiên
**_Lorraine_** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bretagne_ của Hải quân Pháp, được đặt tên theo khu vực hành chính Lorraine của nước Pháp, và đã phục vụ tại Địa Trung Hải trong cả
**_Bretagne_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp, và là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Bretagne_. Nó được đặt tên theo khu vực hành chính Bretagne của nước Pháp, và
**_Provence_** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bretagne_ của Hải quân Pháp, được đặt tên theo khu vực hành chính Provence của nước Pháp, và đã phục vụ tại Địa Trung Hải trong cả
**_Béarn_** là một tàu sân bay độc đáo từng phục vụ Hải quân Pháp (Marine nationale) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và sau đó. Sự lạc hậu vào lúc chiến tranh nổ ra
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**HMS _Rodney**_ (số hiệu: 29) là một trong hai thiết giáp hạm lớp _Nelson_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào giữa những năm 1920. Tên của nó được đặt nhằm tôn vinh
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
**Lớp tàu sân bay _Joffre**_ là một lớp bao gồm hai tàu sân bay được Pháp dự định chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chỉ có một chiếc được đặt lườn, và
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Omaha**, hay **Bãi Omaha**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune - chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không
**Utah**, hay **Bãi Utah**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không của
**Theodore Roosevelt III** (13 tháng 9 năm 1887 – 12 tháng 7 năm 1944), thường được biết đến là **Theodore** **Roosevelt Jr.**, **Ted** hoặc **Teddy**, là một chính trị gia, nhà kinh doanh và sĩ quan
**Gold**, hay **Bãi Gold**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, mật danh của chiến dịch đổ bộ trong giai đoạn đầu của
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Thống tướng Hoa Kỳ **Omar Nelson Bradley** (sinh ngày 12 tháng 2 năm 1893 - mất ngày 8 tháng 4 năm 1981) là một trong những vị tướng chỉ huy mặt trận Bắc Phi và
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
Thống tướng **Dwight David "Ike" Eisenhower** (phát âm: ; 14 tháng 10 năm 1890 – 28 tháng 3 năm 1969) là một vị Thống tướng Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ
**Juan Pujol García** (; 14 tháng 2 năm 1912 – 10 tháng 10 năm 1988), còn được gọi là **Joan Pujol i García** (), là một điệp viên hai mang người Tây Ban Nha làm