✨King George V (lớp thiết giáp hạm) (1911)
Lớp thiết giáp hạm _King George V_ là một loạt bốn thiết giáp hạm siêu-dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ trong cuộc xung đột này. Một chiếc trong lớp, Audacious, bị đắm do trúng phải thủy lôi do Đức cài ngoài khơi Bắc Ireland vào tháng 10 năm 1914; những chiếc còn lại được cho ngừng hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc và lần lượt bị tháo dỡ hay đánh đắm làm đê chắn sóng sau đó.
Thiết kế
Lớp King George V được dự định như một sự lặp lại của lớp Orion dẫn trước, chỉ có trọng lượng choán nước gia tăng thêm đôi chút do áp dụng một số cải tiến nhỏ trong thiết kế. Khác biệt đáng kể nhất trong dáng vẽ bên ngoài so với lớp Orion là việc tái bố trí cột ăn-ten chính và ống khói phía trước, và bản thân các ống khói có các mặt bên mỏng. Chúng trang bị cùng cỡ pháo 13,5 inch Mark V như đối với lớp Orion, nhưng bắn ra loại đạn pháo nặng hơn đôi chút; và dàn pháo hạng hai được bố trí lại để tăng cường hỏa lực bắn ra phía trước, là khu vực nguy hiểm nhất khi bị tấn công bằng các tàu phóng lôi.
Hai chiếc đầu tiên trong lớp King George V và Centurion thoạt tiên được trang bị cột ăn-ten phía trước dạng cột; nhưng việc phát triển hệ thống kiểm soát hỏa lực đòi hỏi phải có cột ăn-ten chắc chắn hơn, nên chúng được tái trang bị với cột ăn-ten ba chân nặng hơn. Audacious và Ajax được trang bị cột ăn-ten ba chân ngay từ đầu. Nói chung chúng là những thiết kế thành công, mặc dù không được công chúng và báo chí đón nhận đặc biệt nồng nhiệt; về căn bản chúng được quảng bá là sự tiến bộ đáng kể so với lớp Orion, đặc biệt là được kỳ vọng để trang bị pháo 6 inch cho dàn pháo hạng hai. Trong thực tế mãi đến lớp Iron Duke tiếp theo mới được trang bị pháo 6 inch cho dàn pháo hạng hai.
Hệ thống động lực
Những chiếc trong lớp King George V được trang bị bốn turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp bốn trục chân vịt mà không có hộp số giảm tốc. Hơi nước được cung cấp bởi 18 nồi hơi Babcock and Wilcox, bố trí trong ba phòng nồi hơi gồm sáu nồi hơi mỗi phòng. Công suất thiết kế là nhằm cho phép đạt được tốc độ tối đa . Tuy nhiên trong thực hành, do các nóc quan sát được đặt trên nóc tháp pháo, việc bắn thượng tầng ngay bên trên gây ảnh hưởng mạnh đến pháo thủ tháp pháo bên dưới.
Góc nâng tối đa của các khẩu pháo này là 20°, một sự cải tiến so với các lớp dreadnought trước đây. Góc bắn của các tháp pháo "A", "B", "X", "Y" trên danh nghĩa là 300°, cho dù trong thực hành người ta nhận ra việc bắn quá gần sẽ gây hư hại cấu trúc thượng tầng. Tháp pháo "Q" cũng được cho là có góc bắn tối đa 300°, với điều kiện nòng pháo được nâng tối đa để đạn pháo vượt qua khối cấu trúc thượng tầng phía sau; nếu không nâng tối đa, góc bắn của nó chỉ đạt 115° cho cả hai bên mạn, một lần nữa phô bày nguy cơ chớp lửa đạn gây hư hại cho cấu trúc thượng tầng phía trước hay phía sau nếu bắn quá gần. Các khẩu pháo bắn ra đạn pháo nặng với tốc độ bắn tối đa hai phát mỗi phút; cho dù trong thực tế để trinh sát điểm rơi chúng chỉ được bắn với tốc độ một phát mỗi phút.
Dàn pháo hạng hai
Dàn pháo hạng hai của lớp King George V bao gồm mười sáu khẩu pháo BL Mark VII bố trí trên các tháp pháo đơn. Để đối phó lại nhận thức về nguy cơ từ các tàu phóng lôi đối phương chủ yếu đến từ mạn phía trước, mười hai khẩu trong số chúng có thể xoay ra phía trước và chỉ có bốn khẩu hướng ra phía sau. Khi hoàn tất, các khẩu pháo hạng hai phía trước được sắp xếp trên ba tầng khác nhau: mỗi bên mạn gồm một khẩu bên dưới tháp chỉ huy ngang với tháp pháo "Y", ba khẩu trên cấu trúc thượng tầng ngang với sàn trước, và hai khẩu trên lườn tàu sàn trước ngang với bệ tháp pháo "B". Các tháp pháo phía sau được bố trí thượng tầng ngay phía trước tháp pháo "X". Tất cả các khẩu pháo đều được bảo vệ bởi vỏ giáp dày . Tuy nhiên trong hoạt động, các khẩu pháo phía sàn trước bị xem là vô dụng ở bất kỳ hoàn cảnh thời tiết nào; chúng bị tháo dỡ và hàn kín lại vào những năm của Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Vào lúc mà lớp King George V được thiết kế, pháo hạng hai trên những thiết giáp hạm dreadnought của các cường quốc hải quân khác đều đã được trang bị cỡ nòng lớn hơn: đối với Hoa Kỳ, đối với Pháp và đối với Đức, Nhật Bản và Áo. Những chiếc trong lớp King George V chỉ được trang bị cỡ pháo nhỏ hơn vì hai lý do: chính phủ Anh đang theo đuổi một chính sách cắt giảm chi tiêu vũ trang, đã không chuẩn bị để bù đắp một ngân khoảng bổ sung ước lượng khoảng 170.000 Bảng Anh cho việc nâng cấp này; và Thứ trưởng Hải quân Anh, Đô đốc Jackie Fisher, người chịu trách nhiệm cao nhất cho các ý tưởng thiết kế căn bản, đã phản đối việc tăng thêm cỡ nòng cho dàn pháo hạng hai vì lý do kinh tế, và đồng thời ông tin rằng chúng sẽ vô dụng khi thời tiết xấu.
Các con tàu còn được trang bị một khẩu pháo 12 pounder, bốn khẩu pháo chào 3 pounder, năm súng máy Maxim và mười súng máy Lewis. Giống như mọi thiết giáp hạm dreadnought vào thời đó, chúng còn có ba ống phóng ngư lôi, gồm hai bên mạn và một phía đuôi, bắn ra loại ngư lôi . Trong những năm chiến tranh, hai khẩu 4-inch phòng không được trang bị bổ sung trên sàn sau của những chiếc còn sống sót. Ngoài ra, không giống như King George V và Centurion, Audacious và Ajax được thiết kế để trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực vốn yêu cầu một cột ăn-ten trước chắc chắn hơn. Vỏ giáp bảo vệ bên trong được cải tiến, vũ khí chống ngư lôi được tăng cường, và tốc độ tăng thêm khoảng một knot.
Những chiếc trong lớp
Lịch sử phục vụ
Cả bốn chiếc trong lớp đều được đưa ra hoạt động trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Không lâu sau khi xung đột bắt đầu, Audacious, bị đắm do trúng phải thủy lôi do tàu rải mìn Đức cài ngoài khơi Bắc Ireland vào tháng 10 năm 1914; những chiếc còn lại được cho ngừng hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc, và lần lượt bị tháo dỡ do vượt quá hạn ngạch tàu chiến chủ lực mà Hiệp ước Hải quân Washington quy định. Chỉ riêng Centurion được giữ lại sau khi tháo bỏ vũ khí để phục vụ như một tàu mục tiêu. Cuối cùng nó đánh đắm làm đê chắn sóng ngoài khơi các bãi đổ bộ ở Normandy trong Chiến dịch Overlord năm 1944.