✨HMS Erin

HMS Erin

HMS _Erin_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; nguyên được hãng đóng tàu Anh Vickers chế tạo theo đơn đặt hàng của chính phủ Ottoman (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), và sẽ đưa vào phục vụ cùng Hải quân Ottoman dưới tên gọi Reshadieh. Đế quốc Ottoman dự định sở hữu một thiết giáp hạm ít nhất phải tương đương với mọi con tàu khác đang có hoặc đang được đóng. Thiết kế của nó về căn bản dựa trên kiểu King George V, nhưng có một số đặc tính của chiếc Iron Duke thuộc lớp tiếp theo. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914, con tàu đã gần hoàn tất; và theo lệnh của Winston Churchill, Bộ trưởng Hải quân Anh vào lúc đó, con tàu bị Hải quân Hoàng gia Anh trưng dụng.

Erin hoạt động cùng Hạm đội Grand trong suốt cuộc chiến, chỉ tham gia tác chiến duy nhất một lần trong trận Jutland vào năm 1916. Sau chiến tranh, nó được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1919; rồi do những giới hạn chạy đua vũ trang của Hiệp ước Hải quân Washington, Erin bị bán để tháo dỡ vào ngày 19 tháng 12 năm 1922.

Thiết kế và chế tạo

Bối cảnh

Erin thoạt tiên được Đế quốc Ottoman đặt hàng dưới tên gọi Reshad, nhưng được đổi tên thành Reshadieh trong khi đang được chế tạo. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu Vickers vào ngày 6 tháng 12 năm 1911, hạ thủy vào ngày 3 tháng 9 năm 1913 và hoàn tất vào tháng 8 năm 1914. Chiếc thiết giáp hạm mới bị trưng dụng vào hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 22 tháng 8 năm 1914 và được đổi tên thành Erin. Người ta cho rằng việc Anh chiếm hữu hai thiết giáp hạm ReshadiehSultan Osman (đổi tên thành Agincourt) là động lực thúc đẩy Đế quốc Ottoman tham chiến theo phe Liên minh Trung tâm; nhưng điều này bị tranh cãi khi Ottoman và Đế quốc Đức đã thỏa thuận ngầm việc liên minh vào ngày 2 tháng 8. Một nỗ lực từ phía Anh nhằm đền bồi cho Ottoman những thiệt hại do bị mất hai thiết giáp hạm đã bị Ottoman bỏ qua.

Các đặc tính chung

Thiết kế của nó gần giống như của kiểu King George V, nhưng có một số cải tiến. Thiết giáp hạm Anh vào lúc đó phải nằm trong giới hạn tuyệt đối về mạn thuyền và tầm nước do Bộ Hải quân Anh quy định để tương thích với những ụ nổi đang sẵn có. Erin được đóng với mạn thuyền rộng hơn và chiều dài ngắn hơn so với King George V khiến nó ổn định hơn, cho phép trang bị một dàn pháo hạng hai mạnh hơn và bố trí tháp pháo "Q" cao hơn một sàn tàu. Nó chỉ có một cột ăn-ten ba chân trước, nơi bố trí hệ thống điều khiển hỏa lực, và được đặt trước ống khói trước; chân cột ăn-ten choãi ra trước thay vì ra phía sau theo cách thông thường, cho phép các xuồng trên tàu hoạt động từ các sào căng ra từ cột này thay vì cột buồm chính. Do cách bố trí cột ăn-ten đặc biệt, phòng hải đồ không thể bố trí như một phần của tháp chỉ huy, nhưng như một cấu trúc độc lập đặt chung quanh bệ cột ăn-ten.

Nó được chế tạo với mũi tàu dạng lưỡi cày, một thiết kế cắt ngọt qua nước vốn sẽ giúp nước ít tràn lên sàn trước khi biển động. Hai ống khói được đặt sát với nhau hơn so với các chiếc dreadnought Anh trước đó, và dáng vẽ của dàn pháo hạng hai rất đặc trưng kéo dài từ tháp pháo "B" đến tháp pháo "X".

Vũ khí

Dàn pháo chính Erin bao gồm mười khẩu pháo /45 caliber Mark VI bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi, tất cả được bố trí dọc theo trục giữa con tàu. Tháp pháo "A" được đặt trên sàn trước với góc bắn không bị che khuất bởi mũi tàu khoảng 300°; tháp pháo "B" được đặt một sàn cao hơn, bắn thượng tầng bên trên tháp pháo "A" với góc bắn tương đương. Tháp pháo "Q" đặt giữa ống khói sau và cấu trúc thượng tầng phía sau, ngang mức sàn tàu trước vốn cao hơn một tầng so với tháp pháo tương trên những chiếc lớp King George VIron Duke. Góc bắn của tháp pháo này là 300° về phía đuôi khi nâng tối đa; nhưng ở góc nâng thấp hơn, cấu trúc thượng tầng phía sau làm giới hạn góc bắn còn 120° cho cả hai bên mạn. Tháp pháo "Y" được đặt trên sàn sau, thấp hơn một tầng so với sàn tàu trước và góc bắn không bị che khuất bởi đuôi tàu là 300°. Tháp pháo "X" được đặt ngay trước tháp pháo "Y" và bắn thượng tầng bên trên nó với góc bắn tương đương. Mỗi khẩu pháo mang theo 80 quả đạn pháo.

Dàn pháo hạng hai của nó mạnh mẽ hơn so với những thiết giáp hạm Anh đương thời hoặc trước đó, bao gồm mười sáu khẩu pháo /50 calibre Mark XVI, sắp xếp tám khẩu mỗi bên mạn trên sàn tàu chính kéo dài từ tháp pháo "B" đến tháp pháo "X", tất cả đều cao bên trên mực nước ở mớn nước thông thường. Ba khẩu trước mũi có góc bắn từ thẳng ra trước cho đến 40° ra phía sau; hai khẩu giữa tàu có góc bắn từ 65° phía trước đến 65° phía sau; và góc bắn ba khẩu phía sau từ 40° ra trước cho đến thẳng ra phía sau. Ba khẩu trước mũi có xu hướng bị ướt nước khi biển động. Số đạn mang theo mỗi khẩu pháo là 150 quả đạn pháo.

Ngoài ra, con tàu còn mang ba khẩu pháo (12-pounder) bố trí cao trên cấu trúc thượng tầng; bốn ống phóng ngư lôi gồm hai ống mỗi bên mạn và mang theo tổng cộng 10 quả ngư lôi. Đến năm 1917, hai khẩu phòng không được bổ sung trên cấu trúc thượng tầng phía sau, và đến năm 1918 các bệ cất cánh dành cho máy bay được trang bị thêm trên các tháp pháo "B" và "Q".

Hệ thống động lực

Bốn trục chân vịt được dẫn động trực tiếp từ bốn turbine hơi nước Parsons. Hơi nước cung cấp cho turbine được sản sinh từ 15 nồi hơi Babcock and Wilcox với áp lực hoạt động bình thường . Công suất được thiết kế của con tàu là , được mong đợi để có được một tốc độ tối đa . Con tàu có thể mang theo cho đến than và dầu đốt, cho phép có tầm hoạt động lên đến ở tốc độ đường trường nếu chỉ thuần túy đốt than, và lên đến cũng ở tốc độ đường trường 10 knot nếu sử dụng hỗn hợp cả dầu lẫn than. Bán kính hoạt động như vậy thấp hơn đáng kể so với các thiết giáp hạm Anh đương thời, nhưng phù hợp cho những hoạt động tại Bắc Hải, nơi dự kiến sẽ đụng độ với Hạm đội Biển khơi Đức.

Lịch sử hoạt động

phải|thumb Erin gia nhập Hạm đội Grand vào ngày 5 tháng 9 năm 1914 tại căn cứ chủ yếu của hạm đội ở Scapa Flow thuộc Orkney. Nó được bố trí về Hải đội Chiến trận 4 một thời gian ngắn trước khi được chuyển sang Hải đội Chiến trận 2 vào tháng 10 năm 1914. Vào ngày 31 tháng 5 năm 1916, Erin đã có mặt trong trận Jutland, khi Hải đội Chiến trận 2 dẫn đầu hàng chiến trận chính của Anh, và Đội 1 của nó bao gồm King George V (soái hạm của Phó đô đốc Martyn Jerram), Ajax, CenturionErin vốn là chiếc thứ tư trong hàng chiến trận.

Nó tiếp tục ở lại cùng Hạm đội Grand trong suốt thời gian còn lại của chiến tranh, nhưng không đụng độ với đối phương lần nào khác. Đến tháng 10 năm 1919 nó được đưa về lực lượng dự bị tại Nore, và từ tháng 12 năm 1919 nó được sử dụng như một tàu thực hành tháp pháo tại xưởng tàu Chatham. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 1920, Erin trải qua một đợt tái trang bị tại xưởng tàu Devonport. Nó được dự định giữ lại để phục vụ như một tàu huấn luyện vào năm 1921 theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington, nhưng một thay đổi trong kế hoạch đã khiến vai trò này được giao cho chiếc Thunderer. Đến tháng 5 năm 1922 nó được đưa vào danh sách loại bỏ; và vào ngày 19 tháng 12 năm 1922, chiếc thiết giáp hạm bị bán cho hãng tháo dỡ tàu Cox and Danks, và nó bị tháo dỡ tại Queenborough vào năm 1923.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**HMS _Erin**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; nguyên được hãng đóng tàu Anh Vickers chế tạo theo đơn đặt hàng của chính phủ Ottoman (nay là Thổ
**HMS _Agincourt**_ là một thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo vào đầu những năm 1910. Nguyên được Brasil đặt hàng dưới tên gọi _Rio de Janeiro_, nhưng sự sụt giá cao su trên thị
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến