✨Hạm đội hiện hữu

Hạm đội hiện hữu

nhỏ|320x320px|[[Arthur Herbert, Bá tước thứ nhất của Torrington, người khởi xướng thuật ngữ "hạm đội hiện hữu" năm 1690.]] Trong hải chiến, một "hạm đội hiện hữu" là một lực lượng hải quân thể hiện ảnh hưởng và kiểm soát mà không cần phải rời cảng. Nếu hạm đội rời cảng và đối mặt với kẻ thù, nó có thể thua trong trận chiến và không còn ảnh hưởng được đến hành động của kẻ thù, nhưng trong khi nó vẫn an toàn trong cảng, kẻ địch buộc phải liên tục triển khai lực lượng để đề phòng đến nó. Một "hạm đội hiện hữu" có thể là một phần của một học thuyết phong tỏa biển, nhưng không phải là một trong những học thuyết thuộc kiểm soát biển. 

Sử dụng thuật ngữ

Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1690 khi Bá tước Torrington, chỉ huy của lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh trong Eo biển Anh, thấy mình phải đối mặt với một hạm đội Pháp mạnh hơn. Ông đề nghị tránh một trận chiến trên biển trừ khi gặp điều kiện rất thuận lợi, cho đến khi lực lượng ông có thể được củng cố. Bằng cách giữ "hạm đội hiện hữu", ông ta có thể duy trì một mối đe dọa hiện hữu, buộc kẻ thù phải ở lại trong khu vực và ngăn cản chúng không thể chủ động ở nơi khác.

Cách sử dụng khác

Rudyard Kipling đã xuất bản một loạt các bài báo về Hạm đội Eo biển của Anh dưới tiêu đề A Fleet in Being vào năm 1898, nhưng không sử dụng thuật ngữ theo nghĩa được mô tả ở trên.

Khái niệm

Khái niệm "hạm đội hiện hữu" dựa trên giả định rằng hạm đội được tương đối an toàn trong cảng, ngay cả khi gần kẻ thù. Mặc dù giả định này không còn hoàn toàn đúng trong thời kỳ hiện đại, nhưng trong lịch sử, một hạm đội trong cảng là một hạm đội được cách lý tối đa đối với các mối đe dọa tiềm năng từ các cuộc tấn công và thời tiết. Kể cả khi đối phương quyết định giao chiến, họ sẽ phải chịu tổn thất đáng kể để thực hiện mục tiêu.

Kẻ thù sẽ không thể phớt lờ hạm đội trong cảng vì hạm đội đó có thể thừa cơ tấn công lúc có lợi thế. Ngoài ra bên kẻ thù phải luôn duy trì một lực lượng ít nhất tương đương hoặc mạnh hơn lực lượng trong cảng trong trường hợp lực lượng trong cảng có xuất kích dẫn đến kẻ thù phải tốn một phần lực lượng mà họ có thể sử dụng vào việc khác.

Nó dẫn đến trạng thái tiến thoái lưỡng nan thiên về phe phòng thủ.

Tuy nhiên, sau trận đánh Taranto và cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng, rõ ràng là sức mạnh không quân đã biến một hạm đội tập trung ở một cảng thành một mục tiêu dễ bị tổn thương, và một hạm đội hiện hữu không còn là lựa chọn an toàn nữa. Tất nhiên, ta có thể tưởng tượng một tình huống mà một hạm đội vẫn còn tương đối an toàn trong bến cảng, chẳng hạn như đối thủ không muốn tấn công họ tại cảng vì lý do chính trị. Sau khi xem xét các giải pháp khác nhau: "Chiến lược đã được chấp thuận bởi Hải quân Argentina trong Chiến tranh Falkland năm 1982 là dạng của khái niệm "hạm đội hiện hữu"...Hạm đội sẽ không tiến hành một cuộc tấn công trực tiếp; họ sẽ chỉ tấn công khi tỷ lệ cược có lợi cho họ. Nếu không, họ sẽ vẫn ở bên ngoài vùng đặc quyền của Anh và chờ đợi một cơ hội.". Phe Argentina không thể sử dụng hết lợi ích của "hạm đội hiện hữu" nhưng họ đã tránh được kết quả bất lợi.

Ý tưởng của một "hạm đội hiện hữu" có thể được áp dụng vào các lực lượng khác không phải hải quân. Một pháo đài bị vây hãm về bản chất là một "quân đội hiện hữu", giữ chân lực lượng kẻ thù mà không rời khỏi pháo đài hoặc giao chiến. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Saddam Hussein được sử dụng của không quân của mình theo một chiến lược hoạt động tương tự như "hạm đội hiện hữu". Chỉ sự hiện diện của Không quân Iraq trong boongke gia cố buộc lực lượng liên minh tấn công Iraq phải hành động cẩn thận và liên tục hộ tống máy bay ném bom của họ cho đến khi các hầm máy bay của đối phương bị vô hiệu hóa.

Lịch sử

Chiến tranh Nga-Nhật Năm 1904-1905

Ví dụ hiện đại đầu tiên là sự giao tranh giữa Hải quân Đế quốc Nga và Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại cảng Arthur trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904. Nga sở hữu ba hạm đội chiến đấu: một ở Biển Baltic, thứ hai trong Biển Đen và thứ ba ở Viễn Đông. Hải đội Thái Bình Dương ở Viễn Đông đóng quân tại Vladivostok và cảng Arthur. Với cảng Arthur nằm gần với cuộc chiến tranh trên đất liền, nó trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng.

Hải quân Nhật chỉ sở hữu một chiến đội để đấu với ba chiến đội của Hải quân Nga, do đó, bắt buộc Hải quân Nhật phải tránh chiến đấu với cả ba. Hiệp ước Anh-Nhật năm 1902 đã vô hiệu hạm đội Biển Đen bằng cách giữ cho chúng bị chặn ở Biển Đen, vì sợ nguy cơ chiến tranh với Anh. Tuy nhiên, Hạm đội Baltic (sau đó được đổi tên thành Hải đội Thái Bình Dương thứ hai) đã được ra lệnh củng cố hạm đội ở cảng Arthur vào năm 1905. Nhiệm vụ của Hải quân Nhật lúc bấy giờ phải ngăn chặn hành động đó.

Chỉ sau khi "hạm hiện hữu" tại cảng Arthur bị loại bỏ thì hạm đội Baltic và hạm đội Nhật có thể giao chiến và điều này cũng xảy ra vào năm sau, trong trận Tsushima vào tháng 5 năm 1905.

Để hoàn toàn trừ khử hạm đội chiến đấu của cảng Arthur, Hải quân Nhật đã khởi xướng ba chiến dịch. Đầu tiên là một cuộc tấn công bất ngờ bằng ngư lôi từ khu trục vào trong cảng vào đầu tháng 2 năm 1904. Nó đã nhanh chóng tiếp nối bằng  một nỗ lực để chặn lối vào bến cảng bằng cách đánh chìm các tàu hơi nước cũ (tàu khối) trong eo biển. Nỗ lực thứ ba và cuối cùng của việc "đóng hộp" vĩnh viễn hạm đội bằng cách rải mìn vào vùng nước xung quanh lối vào cảng. Mặc dù nỗ lực cuối cùng này cũng thất bại, nó có hậu quả ngoài ý muốn khi cướp đi của Hải quân Nga một trong những sĩ quan hải quân xuất sắc nhất của họ, Đô đốc Stepan Makarov. Khi kì hạm của ông, thiết giáp hạm Petropavlovsk, đâm phải một trong những quả mìn đó nó đã chìm gần như ngay lập tức, dìm chết Makarov cùng với thủy thủ đoàn.

“Hạm đội hiện hữu” vẫn ở yên như vậy, cho đến khi dưới sự chỉ huy mới của Đô đốc Vilgelm Vitgeft, hạm đội cảng Arthur được lệnh phải xông ra và tiến tới Vladivostok vào ngày 10 tháng 8 năm 1904. Việc rút chạy của Vitgeft từ Cảng Arthur dẫn đến Trận chiến Hoàng Hải, một cuộc đấu súng tầm xa quá mức khiến cho không có tàu nào của hai bên bị chìm, nhưng cuối cùng cũng loại bỏ "hạm đội hiện hữu" của cảng Arthur khi tàu chiến của nó bị phân rã về các cảng trung lập (nơi họ bị giam giữ), còn những tàu sống sót bị hư hỏng nặng, không còn khả năng tham chiến.

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Một ví dụ khác là sự đối đầu giữa Hạm đội Biển khơi Đức và Đại Hạm Đội của Anh trong Thế chiến thứ nhất. Đức phần lớn ưu tiên giữ nguyên hạm đội của họ thay vì chấp nhận rủi ro thua trận nếu giao tranh với Hải quân Hoàng gia lớn hơn.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới thứ hai, các hành động của Hải quân Hoàng gia Ý vào năm 1940 cũng thể hiện "hạm đội hiện hữu". Sau một số trận đánh nhỏ chống lại Hải quân Anh mà hầu như không dẫn đến kết quả quyết định, phần lớn hạm đội Ý đã đóng quân tại Taranto, nơi nó có thể nhanh chóng tấn công bất kỳ nỗ lực nào của Anh để tới Malta, gây "ảnh hưởng đáng kể đến chiến lược và bố trí hạm đội của Anh". Ngay cả sau thắng lợi chiến lược tuyệt vời của tàu sân bay Anh tấn công vào Taranto vào tháng 11 năm 1940, người Anh không đưa ra một đòn quyết định nào đối với hạm đội Ý đã dẫn đến Hải quân Anh duy trì các lực lượng hải quân đáng kể ở Địa Trung Hải trong ba năm tới.

Thậm chí nhiều hơn so với các tàu nổi khác trong Hải quân Đức Quốc xã, thiết giáp hạm Đức Tirpitz đã bỏ ra toàn bộ sự nghiệp của mình như là một “hạm đội hiện hữu”. Mặc dù không bao giờ bắn một con tàu địch, nhưng sự hiện diện của Tirpitz buộc Hải quân Hoàng gia Anh phải phân bổ các tàu chiến mạnh mẽ để bảo vệ các đoàn tàu Bắc Cực, và làm cho một đoàn tàu vận tải lớn (PQ-17) phân tán chỉ bằng tin đồn xuất chận, gây tổn thất rất lớn cho đoàn tàu qua tàu ngầm và phi cơ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|320x320px|[[Arthur Herbert, Bá tước thứ nhất của Torrington, người khởi xướng thuật ngữ "hạm đội hiện hữu" năm 1690.]] Trong hải chiến, một "**hạm đội hiện hữu**" là một lực lượng hải quân thể hiện
Cờ của thủy quân Bắc Dương. **Hạm đội Bắc Dương** () là một trong bốn hạm đội hiện đại của hải quân Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Hạm đội này nhận được sự
**Hạm đội 3 Hoa Kỳ/Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ** là một trong 5 hạm đội mang số của Hải quân Hoa Kỳ. Vùng trách nhiệm của Hạm đội 3 gồm 50 triệu dặm vuông
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
phải|Bản đồ hành trình của Hạm đội Great White. **Hạm đội Great White** (tiếng Anh: _Great White Fleet_) là biệt danh phổ biến để chỉ một hạm đội tác chiến của Hải quân Hoa Kỳ
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
hay **Phái Hạm đội** là một phe chính trị không chính thức trong nội bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào những năm 1920 và 1930 bao gồm các sĩ quan phản đối các
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _Queen Elizabeth**_ bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm thế hệ siêu-dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của lớp được đặt nhằm tôn vinh Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Revenge**_ bao gồm năm thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, được đặt hàng vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp mở màn, và
**_Fusō_** (tiếng Nhật: 扶桑, _Phù Tang,_ một tên cũ của Nhật Bản), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm cùng tên.
**Lớp thiết giáp hạm _New York**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ năm được thiết kế, và đã phục vụ trong cả
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**_Yamato_** (), tên được đặt theo vùng đất nay là tỉnh Nara của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**HMS _Duke of York_ (17)** là một thiết giáp hạm hạng nặng thuộc lớp _King George V_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ
**Quân đội Nhân dân Triều Tiên** là lực lượng quân sự của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, gồm 5 nhánh Lục quân, Hải quân, Không quân, Tên lửa đạn đạo và Đặc
**Lớp thiết giáp hạm _Nagato**_ (tiếng Nhật: 長門型戦艦; Rōmaji: _Nagato-gata senkan_; phiên âm Hán-Việt: _Trường Môn hình chiến hạm_) bao gồm hai thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động từ
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
**Lớp thiết giáp hạm _Fusō**_ (tiếng Nhật: 扶桑, một cái tên cũ của Nhật Bản), là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế
**Lớp thiết giáp hạm _Fuji**_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**_Nelson_** là tên của một lớp thiết giáp hạm gồm hai chiếc: _Nelson_ và _Rodney_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia không lâu sau khi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 có
**_Yamashiro_** (tiếng Nhật: 山城, Sơn Thành) là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp Fusō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và đã bị đánh chìm năm 1944 trong Thế Chiến II. ##
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**HMS _Repulse**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Renown_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, vốn bao gồm cả chiếc _Renown_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
**Type 88** (88式地対艦誘導弾) hay **SSM-1** là loại tên lửa đất đối hạm do tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries phát triển và được trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản. Nó được
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Trận Taranto** diễn ra vào đêm 11-12 tháng 11 năm 1940 trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa giữa Hải quân Hoàng gia Anh dưới sự chỉ huy của Đô đốc Andrew Cunningham và
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
thumb|[[Anatoly Serdyukov với ý tưởng cải tổ trên diện rộng quân đội Nga vào năm 2008]] **Cải cách quân đội Nga năm 2008** (_2008 Russian military reform_) hay còn gọi là **cải cách Serdyukov** (_Реформа
**Lớp thiết giáp hạm _Normandie**_ là những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Pháp đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt tên theo những tỉnh của nước Pháp,
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Nguyễn Hữu Chí** (1931-1988) nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường sĩ quan Hải
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
là một điều khoản trong Hiến pháp Nhật Bản không cho phép sử dụng chiến tranh để làm phương tiện giải quyết các xung đột quốc tế có liên quan đến Nhật Bản. Hiến pháp
**Lớp Petya** là tên ký hiệu của NATO cho một lớp tàu frigate hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Liên Xô trong thập niên 1960. Tên định danh Liên Xô là Storozhevoi Korabl
**Phong tỏa biển** là một thuật ngữ quân sự mô tả những nỗ lực ngăn cản kẻ thù sử dụng biển mà không nhất thiết kiểm soát biển, nhằm ngăn chặn các nguồn lực quân
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý