✨Hòa ước Nhâm Tuất (1862)

Hòa ước Nhâm Tuất (1862)

Hòa ước Nhâm Tuất là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên giữa Đại Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Nhà Nguyễn phải cắt nhượng lãnh thổ 3 tỉnh Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường cho Pháp.

Hiệp ước được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn giữa đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) là chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos.

Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) gồm 12 điều, hai nội dung quan trọng và nặng nề nhất là triều đình Huế phải nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam kỳ và Côn Đảo với tất cả chủ quyền (điều 3), và bồi thường chiến phí với số tiền lên đến 4 triệu franc Pháp (tương đương 2.880.000 lạng bạc) trong vòng 10 năm (điều 8). Đây chính là hòa ước bất bình đẳng "đầu tiên" của Việt Nam ký với Pháp, mở đầu cho "cuốn vong quốc sử Việt Nam" từ nửa đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam.

Nguyên nhân

thumb|Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh giai đoạn (1841-1862). Theo sử liệu thì nguyên nhân triều đình Tự Đức phải ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long.

Sau khi so sánh hai mối nguy, triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng hòa với thực dân, để có thể đưa đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất Bắc đang uy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn.

Diễn biến

Theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì:

Theo G. Taboulet thì tàu Forbin đưa sứ bộ rời Huế vào ngày 28 tháng 5 năm 1862, đến Sài Gòn vào ngày 3 tháng 6 năm 1862, qua ngày 5 tháng 6 năm 1862 (9 tháng 5 âm lịch năm Nhâm Tuất) thì hai bên ký bản hòa ước trên tàu chiến Duperré của Pháp đậu ở bến Sài Gòn.

Ký hòa ước xong, triều đình phái Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với các quan nước Pháp ở Gia Định.

Tháng 2 năm Quý Hợi (1863), thiếu tướng Bonard và đại tá Palanca ra Huế gặp vua Tự Đức để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Xong rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghỉ, Chuẩn đô đốc La Grandière sang thay.

Bấy giờ nước Tây Ban Nha cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo mà thôi.

Hiệp ước Nhâm Tuất tồn tại cho đến ngày 15 tháng 3 năm 1874, thì bị thay thế bằng Hoà ước Giáp Tuất 1874, theo chiều hướng có lợi cho Pháp hơn nữa.

Quan điểm của vua Tự Đức trước khi ký hòa ước

Tháng 4/1862, phía Pháp cử thiếu tá Simon đi tàu đến cửa Thuận An đưa thư yêu cầu phía Đại Nam cử một đại diện đứng ra đàm phán. Vua Tự Đức cho nhóm họp các quan đại thần bàn về hòa ước, nhà vua đã nói với quần thần rằng: “Tạm thời khuất mình, tạm thời chịu phí, mà có thể cứu được quân dân, không bị mất đất đai thì nên lắm”

Hai quan đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp xin đi Sài Gòn để hội đàm với Pháp, nhà vua đã ưng thuận. Trước khi đoàn sứ lên đường, vua Tự Đức đã rót ngự tửu ban cho và dụ rằng: “Đất đai quyết không thể nào cho được, tà giáo (ý nói Cơ Đốc giáo) quyết không cho tự do tuyên truyền”. Khi biết tin sứ bộ Phan Thanh Giản vượt quyền, đặt bút ký vào bảng sơ thảo hiệp ước, cắt nhượng đất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thì vua Tự Đức thất vọng nói rằng: “Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì?”.

Vua Tự Đức trừng phạt 2 viên chánh phó sứ bằng cách bổ nhiệm Phan Thanh Giản làm Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Huy Hiệp làm Tuần phủ Thuận – Khánh (Bình Thuận và Khánh Hoà ngày nay) – đây là những tỉnh giáp với vùng đất vừa nhượng cho Pháp, để 2 vị đại thần này nối lại các cuộc thương quyết, chuộc sai lầm đã phạm.

Các điều khoản quan trọng

Hòa ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản có tính cách ngoại giao, thì 9 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:

*Khoản 1: Từ nay về sau, hòa bình sẽ mãi mãi được thiết lập giữa một bên là Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha và một bên là Hoàng đế Đại Nam. Tình hữu nghị toàn diện và lâu bền cũng sẽ được thiết lập giữa thần dân ba nước dù họ ở bất cứ nơi đâu.

  • Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn theo đạo Gia Tô, đều sẽ được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tô thì không được ép họ theo.
  • Khoản 3: Chủ quyền trọn ba tỉnh là Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, cũng như đảo Côn Lôn, do hiệp ước này, được hoàn toàn nhượng cho hoàng đế nước Pháp. Ngoài ra, các thương gia Pháp được tự do buôn bán và đi lại bằng bất cứ tàu bè nào trên sông lớn của xứ Cam Bốt và trên tất cả các chi lưu của con sông này; các tàu binh Pháp được phép đi xem xét trên con sông này hay trên các chi lưu của nó cũng được tự do như vậy.
  • Khoản 4: Sau khi đã nghị hòa, nếu có nước ngoài nào muốn, bằng cách gây sự hoặc bằng một hiệp ước giành lấy một phần lãnh thổ của nước Đại Nam, thì hoàng đế nước Đại Nam sẽ báo cho hoàng đế nước Pháp biết bằng một sứ thần,.. để hoàng đế nước Pháp được hoàn toàn tự do đến tiếp cứu nước Đại Nam hay không. Nhưng, nếu trong hiệp ước với nước ngoài nói trên, có vấn đề nhượng địa, thì sự nhượng địa này có thể được thừa nhận nếu có sự ưng thuận của hoàng đế nước Pháp.
  • Khoản 5: Người các nước Pháp và Tây Ban Nha được tự do buôn bán tại ba hải cảng là Tourane (Đà Nẵng), Ba La (Ba Lạt) và Quảng Yên. Người nước Đại Nam cũng được tự do buôn bán tại các hải cảng của nước Pháp và Tây Ban Nha như vậy, nhưng phải theo thể thức luật định...
  • Khoản 8: Hoàng đế nước Đại Nam sẽ phải bồi thường một số tiền là bốn triệu franc, trả trong 10 năm. Vì nước Đại Nam không có tiền franc sẽ được tính bằng 72% lạng bạc.
  • Khoản 9: Nếu có cướp bóc, giặc biển hoặc kẻ gây rối người nước Nam nào, phạm tội cướp bóc hoặc gây rối trên các đất thuộc Pháp, hoặc nếu có người Âu Châu phạm tội nào đó, lẩn trốn trên đất thuộc nước Nam thì ngay khi nhà nước Pháp thông tri cho nhà chức trách Đại Nam, giới chức này phải cố gắng bắt giữ thủ phạm để giao nộp cho nhà chức trách Pháp. Vấn đề cướp bóc, giặc biển hay quân phiến động nước Nam sau khi phạm tội, lẩn trốn trên đất thuộc Pháp, cũng sẽ được xử như vậy.
  • Khoản 10: Dân chúng ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên sẽ được tự do buôn bán trong ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành, nhưng những đoàn tàu chở binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thực giữa ba tỉnh nói trên và Nam Kỳ chỉ được thực hiện bằng đường biển. Tuy nhiên, hoàng đế nước Pháp thuận cho các đoàn tàu chở các thứ trên vào Cam Bốt được có cửa khẩu là lạch Mỹ Tho (Định Tường), gọi là Cửa Tiền, song với điều kiện là các giới chức Đại Nam phải báo trước cho đại diện của hoàng đế nước Pháp, vị đại diện này sẽ trao cho họ một giấy thông hành. Nếu thể thức này không được tuân theo, và một đoàn vận tải như vậy nhập nội mà không có giấy phép thì đoàn đó và những gì hợp thành đoàn đó sẽ bị bắt giữ và các đồ vật sẽ bị phá hủy.
  • Khoản 11: Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế nước Đại Nam ngay khi Ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh Ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên.

Sau khi ký kết

thumb|Bản đồ các [[tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa trong bản đồ hành chính Cochin Chine khu vực thuộc Pháp kiểm soát năm 1863 (Basse Cochinchine Francaise) và trước đó là Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1859 (Basse Cochinchine). (Henri Rieunier (1833-1918) vẽ năm 1863.)]] Sau khi nhận ra sự thua thiệt của mình, và nghe thấy sự bất bình của sĩ dân miền Nam; nên song song với việc điều quân đi trấn áp các cuộc nổi dậy ở đất Bắc, triều đình Tự Đức cũng lên kế hoạch khẩn trương để đi chuộc đất, nhưng không thành công

Sách Việt Nam sử lược chép: :''Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi hoà ước đã ký rồi, mà ngài vẫn sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho mình?. Vua Dực Tông thấy việc này bàn không xong, bèn sai sứ đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và nước I-pha-nho (Tây Ban Nha)...

Sách Việt sử tân biên'' (quyển 5) chép: :Ngày 14 tháng ấy, ông Phan và Lâm về kinh tâu bày sự việc. Vua Tự Đức vừa than vừa thống trách hai vị sứ thần. Cả triều đình đều bất đồng ý kiến về nội dung của hòa ước, nhưng đòi sửa đổi ngay thì biết rằng không được, nên đề nghi cho Phan, Lâm trở lại để giao thiệp với súy phủ Sài Gòn...Hai ông Phan, Lâm bấy giờ chỉ ôm nỗi khổ tâm của mình rồi lên đường vào Nam.

Đối với sĩ dân Nam Kỳ, kể từ sau hòa ước này, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển hẳn sang tay nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền Đông sang ba tỉnh miền Tây (mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trương Định), rồi từ Nam ra Bắc, tạo thành nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam hồi nửa sau thế kỷ 19 .

Theo tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ, ngân khố hoàng gia kiệt quệ khiến Tự Đức gặp khó khăn trong việc thanh toán việc bồi thường chiến phí đã quy định trong Hiệp ước 1862, nhà vua phải dùng mọi biện pháp xoay xở tài chính. Năm 1861, nhà vua cho phép các phạm nhân được trả tiền mặt để chuộc lấy tự do. Năm 1864, nhà vua lại cho phép bỏ tiền ra mua chức tước và phẩm hàm: 1.000 quan chức cửu phẩm, 10.000 quan cho chức lục phẩm (1 quan lúc đó tương đương 1 francs). Năm 1864-1865, nhà vua sai các quan lại đi tìm và khai thác mỏ khoáng sản. Năm 1865, nhà vua ra lệnh cho Thượng thư Bộ Lại và Bộ Lễ thu hồi vàng bạc ở các đồ thờ trong cung điện: 72.000 lượng bạc góp được qua việc thu hồi này, trị giá 100.000 đồng (450.000 francs) vẫn chưa đủ để trả nợ. Tự Đức phái Trương Văn Uyển vào Nam kỳ, nhằm thu góp tất cả các bạc vàng, các ngân khố ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên được 720 lượng vàng, 2.200 lượng bạc và 10.000 đồng. Cũng chưa thấm vào đâu. Năm 1869, nhà vua thiết lập khoản “thuế người Minh hương”. Nhà vua cho người Tàu đóng 302.000 quan để làm đại lý thuốc phiện ở các tỉnh phía Bắc Quảng Bình, trong khi dưới các triều vua trước có lệnh cấm tuyệt đối không được mang thuốc phiện vào Việt Nam, ai vi phạm lệnh cấm sẽ bị tử hình.

Việc xây lăng Vạn Niên, người dân buộc phải làm những việc khổ sai quá sức người, ngày cũng như đêm, ròng rã trong suốt mấy năm trường, họ rất bất bình Tự Đức. Dân chúng có câu ca dao:

Đoàn sứ thần của Đại Nam đến Pháp gồm có chánh sứ Phan Thanh Giản, phó sứ Phạm Phú Thứ và bồi sứ Ngụy Khắc Đản. Bonard đã viết thư báo cáo cho chính phủ pháp về sự việc này, Ngoại trưởng Pháp Drouyn de Lhuys viết thư (ngày 23.6.1863) cho Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa Chasseloup-Laubat tỏ vẻ lo lắng vì tham vọng của người Pháp nuốt trọn Nam Kỳ có thể bị ngăn cản nếu Hoàng đế Napoleon III cho sửa lại điều khoản thứ 3 trong Hoà ước 1862, trả lại 3 tỉnh cho Nhà Nguyễn. Những điều lo lắng của các bộ trưởng trong chính phủ Pháp đều trở thành sự thật khi Hoàng đế Pháp đồng ý thay thế Hoà ước 1862 bằng một hoà ước mới và cử Aubaret, Lãnh sự Pháp ở Bangkok đến Huế để đàm phán vào giữa năm 1864. Dự thảo Hòa ước Aubaret đã được ký kết giữa Aubaret và Phan Thanh Giản. Theo bản dự thảo này, Pháp trả lại cho Đại Nam 3 tỉnh đã cắt nhượng trước đó là Biên Hoà, Gia Định và Định Tường, bù lại, Nhà Nguyễn để Pháp bảo hộ 6 tỉnh Nam Kỳ, bồi thường chiến phí 80 triệu franc... Sau khi dự thảo của hoà ước được ký 5 ngày thì Aubaret nhận được thư từ Paris, yêu cầu ông huỷ bảng hoà ước mới kỳ.

Trong các sử liệu

Trong sử nhà Nguyễn

Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện (phần chép về Phan Thanh Giản) có đoạn kể vắn tắt lại sự việc trên như sau: :Năm thứ 15 (1862), tướng Pháp ở Gia Định mang thư đến nghị hòa. Đình thần xin cho sứ đi lại là phải. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp xin đi. Vua chuẩn cho hai viên ấy sung làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần. Vua rót rượu ngự ban cho, và bảo nên biện bác sao cho khéo. Khi các ông đến Gia Định, tướng Pháp bức bách ta phải nhường giao đất đai và phải chịu tiền bồi thường. Việc đến tai vua, vua xuống dụ khiển trách nghiêm nghị, đổi làm lĩnh Tổng đốc Vĩnh Long, cùng tướng Pháp bàn làm, để chuộc tội...

Trong sách Pháp

Trích trong sách La question de Cochinchine au point de vus des intérêts français của tác giả H. Abel (là sĩ quan hải quân trong bộ tham mưu của đô đốc Charner một người có vai trò quan trọng ở Nam Kỳ từ năm 1860 đến năm 1865)

:''...Triều đình Huế phải đối phó rất gay go cùng một lúc với chiến tranh ở Bắc và ở Nam thì rất nguy hiểm…Thế nhưng sau khi ký hòa ước 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Tự Đức nhận ngay ra sai lầm nghiêm trọng của mình. Và sách lược của Huế là phải chuộc lại lỗi lầm trên, nhưng về biện pháp thì lại vừa biểu hiện "quyết tâm của kẻ yếu thế", vừa bộ lộ sự "lúng túng, không quyết đoán" của họ. :...Bấy lâu nay, triều đình Huế vẫn tỏ ra câm lặng trước mọi phương án, bỗng quay ra chấp thuận những điều khoản của hiệp ước…Phải chăng đây là kế sách của một triều đình đã đến bước đường cùng khi nhận ra sức mạnh của đối phương, và đành phải khuất phục để tránh những tai họa lớn hơn? Hay đây là sự thắng thế của phe phái này đối với phe kia trong triều đình? Hay phải chăng đây là do ảnh hưởng của một nhân vật không ngoan? (ám chỉ Trương Đăng Quế). Hẳn là đã có tất cả các lý do trên .

Trong sách Việt

  • Giáo sư Nguyễn Phan Quang: :Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt, phong trào kháng chiến của nhân dân đang phát triển mạnh, đặt địch quân trước những khó khăn nan giải; mặt khác là những tác động do thất bại của Pháp ở Syrie, sa lầy ở Mexique và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.

:Giữa lúc đó, triều đình Huế chủ động "nghị hòa và ký kết mau chóng" đã làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên: ::May mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước. :Giám đốc Sở Nội vụ Paulin Vial cũng đã viết: ::Trung tá Simon từ Bắc trở về báo cho quan đô đốc (Bonard) rằng người An Nam muốn điều đình...là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu quan trọng...Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá với họ . : Trích trong báo cáo của đô đốc Bonard gửi về Pháp ngày 8 tháng 9 năm 1862: ::''Phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về chính phủ Tự Đức và những người thay mặt họ đã giúp tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm chừng nào hay chừng ấy

:Rõ ràng, nhà Nguyễn hiểu đối phương rất kém. Và mãi cho đến nay người ta vẫn băn khoăn không rõ vì sao chỉ trong một khoảng thời gian ngắn thương thuyết, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp nhận những điều khoản nặng nề như vậy. :Cho nên, vua Tự Đức đã lên án trưởng phó phái bộ Phan, Lâm là: tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời. Sau, trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, nhà vua còn nhắc lại chuyện cũ: Bất đắc dĩ cầu hòa với giặc, sai sứ đi định ước, không biết vì cớ gì mà lập thành hòa ước dễ dàng, đem tất cả thổ địa nhân dân của các triều trước mở mang khó nhọc bỗng chốc bỏ cho giặc hết .

  • Sử gia Phạm Văn Sơn: :Các vụ loạn ở Bắc Kỳ có một điều vô cùng tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862) với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ. Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc bấy giờ cũng đủ hiểu...

:Sử gia P. Cultru nói rằng tuy bề ngoài Pháp làm chủ được nhiều thị trấn ở miền Nam, nhưng vẫn bị quấy đảo khắp nơi...Nhưng một may mắn đặc biệt đã tới với họ, giữa lúc họ không ngờ nhất thì Tự Đức đề nghị mở cuộc giảng hòa. Sau khi thiếu tá Simon trao cho triều đình Huế bản nghị hòa (sơ thảo) thì việc này được đem ra bàn tại triều đình. Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Trương Đăng Quế đều tán thành việc gửi sứ thần vào nghị hòa với Súy phủ Nam Kỳ...Theo ông Quế, các điều kiện Pháp đưa ra cũng là phải chăng, nếu không lợi dụng dịp tốt này mà hòa giải cho xong, sau này cuộc phiêu lưu chưa biết tới đâu... :Ký xong hòa ước, Bonard tự coi là đã thành công một cách oanh liệt. Về phía Việt Nam, nhất là sĩ dân miền Nam rất bất bình vì tại Nam Kỳ bị tổn thất quá nhiều...Nhưng dù căm phẫn thế nào với Pháp, triều đình Tự Đức vẫn không thể chiều ý sĩ dân miền Nam mà tái chiến với Pháp. Họ khuyên Trương Định hạ khí giới. Trương Định không chịu. Tự Đức phải cách chức Trương Định cho khỏi phiền phức với Pháp.

Ngoài ra, theo nhà giáo Ca Văn Thỉnh thì đây là một "hàng ước", còn theo giáo sư Trần Văn Giàu thì "đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến", vì sau hiệp ước này phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt khó khăn hơn trước: nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với đối phương. Quan trọng hơn nữa là triều đình không chỉ ra lệnh bãi binh, mà lại còn tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh cho họ!

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hòa ước Nhâm Tuất** là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên giữa Đại Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Nhà Nguyễn phải cắt nhượng lãnh thổ 3 tỉnh Nam Kỳ gồm Biên Hòa,
**Hiệp ước Giáp Tuất 1874** là bản hiệp định thứ hai giữa nhà Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 giữa đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn -
**Dự thảo Hòa ước Aubaret** (tiếng Pháp: _Projet de traité d'Aubaret_; tiếng Anh: _Draft Treaty of Aubaret_) là những cuộc đàm phán giữa đại diện của Đệ Nhị Đế chế Pháp và Đại Nam nhầm
**Hòa ước Quý Hợi** đã được ký kết vào ngày 14 tháng 4 năm 1863 giữa đại diện của nhà Nguyễn và Pháp. Dựa trên các điều khoản của hiệp định, ba cảng Việt Nam
**Nhâm Tuất** (chữ Hán: 壬戌) là kết hợp thứ 59 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can _Nhâm_ (Thủy dương) và địa chi _Tuất_
nhỏ|Cổng chính đình Tân Hoa hiện nay **Đình Tân Hoa** từng có tên là **Tân Hóa**, **Tân Hòa** (còn được gọi là **đình Cái Đôi** vì mặt tiền đình trước đây hướng ra vàm rạch
**Năm 1862** (số La Mã: **MDCCCLXII**) là một năm bắt đầu vào ngày thứ tư trong lịch Gregory hay một năm bắt đầu bằng ngày thứ hai, chậm hơn 12 ngày trong lịch Julius). ##
Trong quá trình xâm lược Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long cả thảy hai lần. Trận đầu diễn ra từ ngày 20 cho đến ngày 23 tháng
**Khu di tích Gò Tháp** là một di tích quốc gia đặc biệt, nằm trên địa bàn hai xã Mỹ Hòa và Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách Mỹ An (huyện lỵ)
**Gò Công** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa. ## Địa lý Tỉnh Gò Công có vị trí địa lý: *Phía đông giáp Biển Đông *Phía tây giáp thành phố Mỹ Tho và
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Biên Hòa** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa. ## Địa lý Tỉnh Biên Hòa có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Long Khánh và tỉnh Phước Tuy *Phía tây giáp
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
Đây là bản dịch tiếng Việt của tham luận (bằng tiếng Anh) của TS. Trần Đức Anh Sơn đã viết để tham gia “Conference on Nguyen Vietnam: 1558 – 1885” (Hội thảo về nhà Nguyễn
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Nguyễn Thành Ý** (chữ Hán: 阮誠意, 1820-1897), tự là **Thiện Quan**, hiệu là **Túy Xuyên**, là một quan đại thần triều Nguyễn. Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Đại
**Chiến dịch Nam Kỳ** là chiến dịch Pháp giành quyền bảo hộ toàn bộ miền Nam Kỳ, nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1858. Pháp phát động cuộc chiến tranh đầu tiên tại bán đảo
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Ngụy Khắc Đản** (魏克憻, 1817–1873), tự **Thản Chi**, là danh sĩ và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử sơ lược thumb|Đoàn sứ thần Đại Nam tại Paris năm 1863,
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
thumb|Edouard Drouyn de Lhuys (1805-1881), ảnh của [[Auguste Lemoine.]] thumb|Thư của [[Napoléon III gửi Shogun Nhật Bản đề cử Léon Roches, thay cho Duchesne de Bellecourt, được ký bởi Drouyn de Lhuys. Văn khố Ngoại
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Trần Thiện Chánh** (1822?-1874) , hay **Trần Thiện Chính**), tự: **Tử Mẫn**, hiệu: **Trừng Giang**; là nhà thơ và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Trần
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Võ Duy Dương** (; Hán Việt: _Vũ Duy Dương_; 1827-1866), còn gọi là **Thiên hộ Dương** (千戶楊, do giữ chức Thiên hộ), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở Đồng
**Chợ Gạo** là một huyện thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Chợ Gạo nằm ở phía đông tỉnh Tiền Giang, có vị trí địa lý: * Phía đông giáp huyện Gò
Tượng đài [[Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu]] **Khởi nghĩa Bảy Thưa** (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên
**Tân An** là tỉnh cũ ở miền Đông Nam Kỳ, Việt Nam. Tỉnh Tân An được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1900, tồn tại vào thời Pháp thuộc và bị chính quyền
**Cai Lậy** là một huyện cũ thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cai Lậy nằm ở phía tây của tỉnh Tiền Giang, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện
**Trường Trung học phổ thông Marie Curie** là một trường trung học phổ thông công lập, với diện tích 20.700 m, ## Lịch sử hình thành, các tên gọi và quá trình hoạt động Ngay
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Học Lạc** (1842–1915) tên thật là **Nguyễn Văn Lạc**, biệt hiệu **Sầm Giang**; là nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc. ## Tiểu sử **Học Lạc** là người làng Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Mỹ Tho
**Đền Hiển Trung**, tên chữ là **Hiển Trung từ**, tục gọi là **miếu Công Thần**; khi xưa tọa lạc trên phần đất của làng Tân Triêm, thuộc trấn Gia Định xưa (nay thuộc Quận 1,
**Võ Thị Viên** (chữ Hán: 武氏媛; 5 tháng 11 năm 1815 – 22 tháng 3 năm 1880), còn có húy là **Viên**, phong hiệu **Nhất giai Lương phi** (一階良妃), là một cung phi của vua
**Khâm Tấn Tường** (? - ?) là quan nhà Nguyễn và là một thủ lĩnh trong phong trào kháng Pháp ở nửa sau thế kỷ 19 tại Tây Ninh, Việt Nam. ## Tiểu sử Không
**Cửa Ba Lạt** là cửa biển ở miền Bắc Việt Nam nơi sông Hồng đổ ra vịnh Bắc Bộ giữa huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định ở hữu ngạn - bờ nam và huyện Tiền
**Tân An** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý nhỏ|trái|Trung tâm thành phố Tân An Thành phố Tân An nằm về phía
**Long An** là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. ## Thời cổ đại Long An là một trong những địa bàn của Nam Bộ từ lâu đã có cư
Tượng đài Nguyễn Trung Trực tại công viên trung tâm thành phố Rạch Giá **Trận đồn Kiên Giang** hay **trận đồn Rạch Giá** xảy ra vào ngày 16 tháng 6 năm 1868 và kết thúc
**Lê Quang Bỉnh** (? – ?), hiệu **Thận Trai**, là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Quang Bỉnh** là người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên (nay thuộc
**_Kim Gia Định phong cảnh vịnh_** (còn có tên là **_Gia Định phong cảnh quốc âm ca vịnh_**) là một tác phẩm bằng thơ do Hai Đức (? - 1882?, không biết họ tên đầy
nhỏ|phải|Mặt tiền nhà nguyện **Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh** là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang** (tên khác: **Nhà thờ La Vang**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng giáo phận Huế, tọa lạc ở xã Hải Lăng, Quảng Trị, Việt
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Tạ Văn Phụng** (chữ Hán: 謝文奉; ? - 1865), còn có các tên là **Bảo Phụng,** **Lê Duy Phụng** (黎維奉), **Lê Duy Minh** (黎維明 ## Cuộc đời Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương,