✨Chiến dịch Bobruysk

Chiến dịch Bobruysk

Chiến dịch Bobruysk là một trong ba chiến dịch mở màn cho các hoạt động tấn công lớn nhất năm 1944 của Quân đội Liên Xô trên chiến trường Byelorussia, diễn ra từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 29 tháng 6 năm 1944, đúng ba năm sau ngày phát xít Đức tấn công Liên Xô. Chiến dịch diễn ra trên hướng Zhlobin-Bobruysk-Slutsk, một trong hai hướng đột kích chủ công của các phương diện quân Liên Xô tại mặt trận Byelorussia. Chỉ sau một tuần giao chiến, 4 tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Byelorussia 1 và 3 quân đoàn xe tăng, kỵ binh-cơ giới tăng cường đã đánh bại Tập đoàn quân 9 (Đức); bao vây và tiêu diệt một cụm lớn quân Đức tại "cái chảo" Bobruysk, xóa sổ 7 trong 10 sư đoàn của Tập đoàn quân 9 (Đức), bắt sống 23.000 tù binh.

Chiến thắng tại khu vực Bobruysk đã tạo ra một bàn đạp thuận lợi và rộng lớn để Phương diện quân Byelorussia 1 tấn công đến Minsk và Baranovichi, phối hợp với các Phương diện Byelorussia 2 và Byelorussia 3 hình thành một "cái chảo" khổng lồ ở khu vực phía Đông Minsk, bao vây, tiêu diệt và bắt làm tù binh hơn 100.000 sĩ quan và binh lính Đức Quốc xã thuộc Tập đoàn quân 4 và tàn quân của các tập đoàn quân 9 và xe tăng 3 (Đức); hoàn thành giai đoạn đột phá mặt trận, giai đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ Chiến dịch Bagration.

Tình huống mặt trận

Sau Chiến dịch Gomel-Rechitsa (Recyca), các tập đoàn quân 28 và 65 của Phương diện quân Byelorussia 1 đã tạo được một "cửa mở" rất thuận lợi ở khu vực Ozarrichi (???). Từ khu vực này, quân đội Liên Xô có thể tấn công lên phía Bắc dọc theo hành lang giữa hai con sông Ptichi và Berezina mà không gặp phải chướng ngại sông nước cản đường. Tuy nhiên, do binh lực và phương tiện dự bị của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đang dồn vào các trận đánh vượt sông Dniepr và Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr để giải quyết dứt điểm chiến trường Ukraina nên Phương diện quân Byelorussia 1 và các phương diện quân trên hướng Tây mặt trận Xô-Đức phải tổ chức phòng ngự tích cực trong suốt nửa đầu năm 1944. Trong khoảng thời gian đó, các tập đoàn quân cánh phải của phương diện quân đã tổ chức nhiều trận đánh cục bộ nhưng chưa thể đột phá được tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 9 (Đức).

Từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 2 năm 1944, Tập đoàn quân 3 (Liên Xô) do tướng A. V. Gorbatov chỉ huy bên cánh phải của Phương diện quân Byelorussia 1 đã mở Chiến dịch Rogachev-Zhlobin. Sau năm ngày tấn công vượt sông Dniepr và chống trả các đòn phản kích ác liệt của các sư đoàn xe tăng 5, 20 và một phần sư đoàn xe tăng 4 (Đức), Tập đoàn quân 3 đã chiếm lĩnh và giữ vững khu vực đầu cầu Toshitsa rộng gần 60 km, sâu từ 5 đến 30 km bên hữu ngạn sông Dniepr, đoạn từ Novo Bykhov (Nowy Bychow) qua Rogachev (Rahachow) đến phía Đông Zhlobin (Zlobin), áp sát sông Drut, làm gián doạn con đường sắt từ Mogilev đi Zhlobin. Đây là một căn cứ bàn đạp rất có giá trị về quân sự và trở thành một trong hai khu vực xuất phát tấn công rất thuận lợi của Phương diện quân Byelorussia 1 trong Chiến dịch Bobruysk.

Trong quá trình tấn công, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev phải mở rộng phạm vi tấn công sang phía Tây để che chắn cho sườn trái của cánh quân chủ lực khi thực hiện các đòn đánh vu hồi. Hai tập đoàn quân 28 và 65 phải thực hiện một vòng vây kép phía Tây Bắc Bobruysk, ngăn chặn tất cả các đòn phản kích của quân Đức từ hướng Minsk xuống và các cuộc phá vây từ Bobruysk ra. Về sườn phải của Tập đoàn quân 3 thì tướng Rokossovsky không lo lắng nhiều vì theo kế hoạch hiệp đồng tác chiến chiến dịch, Tập đoàn quân 50 của Phương diện quân Byelorussia 2 trên hướng Chausy (Chavusy) - Bykhov sẽ đồng thời mở cuộc tấn công sang Klichev (Klichaw) và mối đe dọa của Quân đoàn bộ binh 12 (Đức) từ phía Bắc đối với sườn phải Tập đoàn quân 3 sẽ bị chế ngự. K. K. Rokossovsky giữ Quân đoàn xe tăng 1 làm thê đội dự bị với hai nhiệm vụ: tiêu diệt quân Đức trong vòng vây ở Bobruysk và phát huy chiến quả sau chiến dịch lên hướng Minsk.

Về kế hoạch tấn công trong chiến dịch Bobruysk, giữa K. K. Rokosovsky và I. V. Stalin có sự bất đồng. I. V. Stalin lo ngại rằng kế hoạch tấn công của K. K. Rokossovsky quá táo bạo vì Phương diện quân Byelorussia 1 có một trận tuyến dài đến trên 900 km từ Selets-Kholopeyev qua Zhlobin và Kapatkyevichi, xuyên qua đầm lầy Polesya và kết thúc ở phía Nam Koven. Vì vậy, có lúc I. V. Stalin đã bàn đến việc chia Phương diện quân Byelorussia 1 làm hai. Ông cho rằng việc chỉ huy một phương diện quân chiến đấu trên hai mặt trận cách xa nhau hơn 900 km là không thể. Tuy nhiên K. K. Rokossovsky, vẫn kiên trì bảo vệ quan điểm của mình. Ông chứng minh rằng dù trên hai hướng khác nhau với mặt trận kéo dài nhưng nó lại là lợi thế rất quan trọng của phương diện quân này, cho phép thực hiện những đòn vu hồi sâu và các cuộc bao vây lớn tại phía Tây Minsk trong giai đoạn sau, giai đoạn phát huy chiến quả của chiến dịch. Trong hồi ký của mình, K. K. Rokossovsky đã đề cập đến vấn đề này như sau:

Trong buổi tranh luận, I. V. Stalin đã ba lần yêu cầu K. K. Rokossovsky "trở về và suy nghĩ lại", tuy nhiên cả ba lần Rokossovsky đều trả lời "Hai mũi đột phá, đồng chí Stalin, hai mũi đột phá." Sau lần thứ 3, I. V. Stalin đến bên cạnh K. K. Rokossovsky và đặt tay lên vai ông. Mọi người cho rằng Stalin sẽ giật đứt quân hàm trên vai của Rokossovsky, nhưng I. V. Stalin bỗng trả lời: "Sự tự tin của đồng chí đã thể hiện đánh giá đúng đắn của đồng chí." và chấp thuận kế hoạch của Rokossovsky.

Paul Karl Schmidt đã nhận xét:

Căn cứ vào kinh nghiệm Chiến dịch Stalingrad, K. K. Rokossovsky còn cho rằng không nên bao vây những lực lượng nhỏ quân Đức tại các bên sườn mà cần đánh thốc ngay đến Minsk để hợp vây một lực lượng quân Đức lớn hơn. Rất tiếc vì Đại bản doanh Liên Xô không đủ lực lượng dự bị cho kế hoạch ấy và thiếu các phương tiện tác chiến đường thủy ý đồ một cuộc hợp vây đẹp từ hướng Kovel đánh ngược vào phía Tây Minsk không thể thực hiện được. Tuy nhiên, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô vẫn coi chiến dịch trên hướng Kovel là một phần quan trọng của giai đoạn sau, khi quân đội Liên Xô đã giải phóng Minsk. Và chính mũi tấn công đó đã làm nên thành công của giai đoạn 3 Chiến dịch Bagration

Nguyên soái G. K. Zhukov có lời nhận xét khác hơn về những gì xảy ra trong buổi tranh luận về kế hoạch tấn công của K. K. Rokossovsky:

Quân đội Đức Quốc xã

Binh lực

Cánh Nam của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Ernst Busch, từ ngày 27 tháng 6 do thống chế Walter Model chỉ huy. Trên địa bàn tác chiến có Tập đoàn quân 9 do trung tướng bộ binh Hans Jordan, đến ngày 27 tháng 6 là trung tướng xe tăng Nikolaus von Vormann chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn bộ binh 35 của Friedrich Wiese (đến ngày 25-6-1944) và thiếu tướng Kurt-Jürgen Freiherr von Lützow, thành phần gồm 6 trung đoàn bộ binh xung kích, 6 trung đoàn bộ binh, 5 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn chống tăng, 1 tiểu đoàn cơ giới, 4 tiểu đoàn súng cối. Bố trí như sau: Sư đoàn bộ binh 6 của tướng Walter Heyne đóng tại Zhlobin. Sư đoàn bộ binh 45 của tướng Joachim Engel đóng tại Parichi. Sư đoàn bộ binh 296 của tướng Arthur Kullmer đóng tại Bobruisk. Sư đoàn bộ binh 383 của tướng Edmund Hoffmeister đóng ở Karpilovka. Quân đoàn xe tăng 41 của thiếu tướng Edmund Hoffmeister, thành phần gồm 3 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn cơ giới, 1 trung đoàn pháo tự hành, 1 cụm tác chiến sư đoàn, 3 trung đoàn pháo xe kéo, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn chống tăng, 1 trung đoàn phòng không., 2 tiểu đoàn súng cối. Bố trí như sau: Sư đoàn xe tăng 20 của tướng Mortimer von Kessel đóng ở Bobruisk. Sư đoàn bộ binh 134 của tướng Ernst Karl Julius Philipp đóng ở khu vực Klichev. Sư đoàn cơ giới 36 của tướng Alexander Conrady đóng ở khu vực Glussk. *Quân đoàn bộ binh 55 của thiếu tướng Friedrich Herrlein, thành phần gồm 7 trung đoàn bộ binh, 1 cụm tác chiến sư đoàn, 3 trung đoàn pháo, 2 tiểu đoán pháo chống tăng, 2 tiểu đoàn cơ giới, 2 tiểu đoàn súng cối. Bố trí như sau: Sư đoàn bộ binh 102 của thiếu tướng Werner von Bercken đóng ở Koptsevichi. Sư đoàn bộ binh 292 của thiếu tướng Johannes Gittner đóng ở David-Gorodok. *Sư đoàn bộ binh 707 của chuẩn tướng Gustav Gihr đóng tại Zhidkovichi. Các lực lượng trực thuộc tư lệnh tập đoàn quân: Cụm quân bảo vệ hậu phương 532 của trung tướng Friedrich Gustav Bernhard, gồm có: Sư đoàn an ninh 391, Trung đoàn an ninh 102, các tiểu đoàn cảnh vệ quốc gia 234, 350; Tiểu đoàn an ninh giao thông 239 Các trung đoàn lính Cossak 57 và 67. Các tiểu đoàn an ninh người Nga 308, 553 và 675. Các tiểu đoàn bộ binh người Thổ Nhĩ Kỳ 790 và 791. Bộ binh: Các tiểu đoàn xung kích 10, 268; tiểu đoàn quân báo xung kích 4. Pháo binh: Trung đoàn pháo hạng nặng 307 của thiếu tướng Max Lindig Công binh: Các tiểu đoàn cầu 159, 255; các tiểu đoàn công trình 79, 576. Thông tin: Trung đoàn 511 **Hậu cần: Trung đoàn 531.

Riêng thành phố Bobruysk được tổ chức thành một Fester Platz, có chức năng như một cụm cứ điểm phòng thủ mạnh do chuẩn tướng Adolf Hamann chỉ huy.

Nhìn chung, so với Tập đoàn quân số 4 ở khu vực Mogilev - Minsk, Tập đoàn quân số 9 bao gồm các sư đoàn có chất lượng và sức chiến đấu kém hơn. Điều này có thể là do phán đoán của Bộ Tư lệnh tối cao lục quân Đức cho rằng địa hình phức tạp của khu vực này thuận lợi hơn cho việc phòng thủ.

Kế hoạch

Trên thực tế, Tập đoàn quân số 9 đã nhận biết được nguy cơ về một cuộc tấn công lớn quân đội Liên Xô. Các lực lượng tuần tra của sư đoàn bộ binh số 134 (Đức) đã phát hiện mật độ tập trung binh lực lớn của quân đội Liên Xô tại khu vực của Quân đoàn bộ binh cơ giới 35 và Quân đoàn xe tăng 41. Theo đó mỗi trung đoàn của sư đoàn bộ binh số 134 (Đúc) sẽ phải đối mặt với 1 sư đoàn Liên Xô đủ biên chế (7.200 người). Trước tình hình này, tư lệnh Tập đoàn quân số 9, tướng Hans Jordan đã khẩn thiết yêu cầu cho phép được tổ chức rút lui chiến thuật để bảo toàn lực lượng, nhưng tất cả đều bị thống chế Ernst Busch - tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Trung tâm - bỏ ngoài tai.

Theo kế hoạch phòng thủ chung của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tại Byelorussia, Tập đoàn quân 9 (Đức) bố trí phòng ngự trên khu vực phía trước Bobruysk thành hai tuyến. Tuyến ngoài từ Bykhov dọc theo sông Dniepr qua Rogachev, Zhlobin, sau đó rẽ sang phía Tây và kết thúc tại Parichi. Tuyến trong chạy dọc theo sông Berezina từ Parichi kéo lên phía Bắc, qua Bobruysk, Svisloch và nối với tuyến phòng thủ thứ hai của Tập đoàn quân 4 (Đức) tại phía Nam Berezino 20 km. Khu vực lõi của hệ thống phòng ngự này là Bobruysk được giao cho Sư đoàn xe tăng 20 và Sư đoàn bộ binh 298 trấn giữ với nhiệm vụ là lực lượng dự bị chiến dịch, sẵn sàng cơ động chi viện cho các hướng khác. Ngoài ra, quanh khu vực Bobruysk còn có các vị trí phòng thủ tại Bogushevka (???), Glebovka Rudnya (???), Krasnaya Dubrovka (Dubrova), Borubniki (???) do Cụm quân bảo vệ hậu phương 532 (Tập đoàn quân 9) trấn giữ với quân số tương đương 2 sư đoàn. Khu vực từ Parichi đến David Gorodok (Davyd Haradok) dài gấp đôi tuyến từ Bykhov đến Parichi nhưng lại chỉ có Quân đoàn bộ binh 55 có binh lực yếu nhất trong ba quân đoàn của Tập đoàn quân 9 phòng giữ. Các cụm phòng thủ lớn nhất trên hướng này được bố trí tại Parichi, Knyshevichi (???), Godyny (???), Karpilovka (???). Từ Kopatkevichi (Kapatkevicy) trên sông Oressa đến David-Gorodok chỉ có các cứ điểm lẻ trên các thị trấn và các gò đất nhô lên trong vùng rừng và đầm lầy Polesya. Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân 9 (Đức) cho rằng quân đội Liên Xô hầu như không thể triển khai tấn công lớn bằng các vũ khí hạng nặng trên khu vực rìa phía Đông vùng đầm lầy Polesya và họ đã phải trả giá cho nhận định không thực tế đó.

Diễn biến

Diễn biến chiến dịch Bobruysk, 24-27 tháng 6 năm 1944. Ngày 23 tháng 6 năm 1944, trận đánh tại Bobruysk mở màn bằng một trận mưa đạn pháo chụp lên đầu các phòng tuyến quân Đức, tiếp theo đó là các đợt xung phong của các mũi tấn công Xô Viết. Tuy nhiên, trước sự phòng thủ cứng rắn của quân Đức, đợt tấn công không diễn ra như mong muốn. Đại tướng K. K. Rokossovsky lập tức cho hoãn tiến công và tiếp tục tổ chức một trận pháo kích dữ dội vào ngày 24 tháng 7. Hai trận pháo kích đã đánh phá tan tành phòng tuyến của sư đoàn bộ binh số 134 (Đức) ở phía Bắc khu vực này, nơi quân đoàn xe tăng số 9 (Liên Xô) tấn công. Đồng thời, hệ thống cầu đường xuyên qua các đầm lầy được công binh xây dựng và ngụy trang khéo léo đã giúp quân đội Liên Xô tiếp cận các vị trí của quân Đức mà đối phương không hề hay biết. Quân Đức vội vã điều sư đoàn thiết giáp số 20 tới chặn kích nhưng cùng lúc đó, quân đoàn xe tăng cận vệ số 1 đã mở được một đột phá khẩu ở phía Nam Bobruysk và tiến sâu hơn 40 cây số; buộc quân Đức phải điều sư đoàn thiết giáp số 20 vòng xuống phía Nam chặn kích. Bị đánh từ hai hướng, lực lượng chặn kích trở nên lúng túng và cứ chạy vòng vòng từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc suốt hai ngày. Trong khi đó, quân đội Liên Xô tiếp tục tấn công dữ dội và, cuối cùng vào ngày 26 tháng 6, quân đoàn xe tăng số 9 đập vỡ phòng tuyến quân Đức ở Rogachev và đánh chiếm các đầu cầu vượt sông Berezina ở phía Nam Bobruysk, trong khi quân đoàn xe tăng cận vệ số 1 đánh chiếm các đầu cầu bên bờ Tây của sông. Theo sau các mũi xe tăng là lực lượng chính của Tập đoàn quân số 65, 48 và 3. 70.000 quân Đức của các quân đoàn số 34, quân đoàn thiết giáp số 41 và sư đoàn xe tăng số 20 đã bị nhốt vào một "cái chảo" lớn ở Đông Nam Bobruysk.

6 giờ sáng 24 tháng 6, các tuyến phòng ngự của quân Đức từ Parichi đến Kopatkevichi phải hứng chịu cuộc pháo kích kéo dài đến 2 giờ liền. Các trung tâm phòng ngự phía trong cũng bị hàng trăm phi vụ ném bom và tấn công mặt đất bằng hỏa tiễn của Tập đoàn quân không quân 16 và Tập đoàn quân không quân chiến lược số 1 (Liên Xô). Đến 11 giờ, Tập đoàn quân 65 đã phá vỡ toàn bộ tuyến phòng thủ đầu tiên của quân Đức và đánh chiếm các cứ điểm Prachi, Gomza (???) và Sekirrichi (???). Bên sườn trái, Tập đoàn quân 28 chỉ cần một buổi sáng để hoàn thành nhiệm vụ đột phá được giao cho họ trong cả ngày, đánh chiếm các vị trí Brodtsam (???), Ospino (???) và Rogy (Roh). Đến cuối buổi sáng 24 tháng 6, cả hai tập đoàn quân 28 và 65 đã mở được một cửa đột phá rộng đến 30 km, sâu từ 5 đến 10 km. Trước những thành công ngoài kế hoạch của hai tập đoàn quân này. Chiều 24 tháng 6, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliev được điều ngay vào khu vực đột phá khẩu để phát huy chiến quả mà không chờ đến ngày hôm sau. Với sức mạnh phối hợp của kỵ binh và xe tăng, cụm quân của tướng I. A. Pliev đã thọc sâu thêm 30 km và đã chạm đến tuyến phòng thủ thứ hai của quân Đức trên khu vực Glusk. Ngày 26 tháng 6, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 (Liên Xô) vượt sông Ptichi, đánh vào sau lưng cánh quân của Quân đoàn xe tăng 41 đã phòng ngự trên khu vực phía Tây sông Berezina. Tuyến phòng ngự của quân Đức một lần nữa bị tan vỡ. Hai quân đoàn kỵ binh Liên Xô đã thọc sâu đến Staro Dorogi (Staryya Darohi), cắt đứt con đường sắt từ Slutsk đi Osipovichi - Bobruysk. Tập đoàn quân 28 và Tập đoàn quân 65 tiến nhanh lên phía Tây Bắc Bobruysk. Ngày 26 tháng 6, họ lần lượt đánh chiếm Glusha rồi thọc lên Osipovichi và Pukhoviuchi (Puchavicy), cắt đứt đường sắt và đường bộ nối Minsk với Bobruysk.

"Hỏa ngục" Bobruysk

"Cái chảo" Bobruysk, 27 tháng 6 - 1 tháng 7 năm 1944. Không bỏ phí thời gian, quân đội Liên Xô đã tiến hành thanh toán quân Đức tại Bobruysk bằng những trận mưa bom bão đạn với cường độ khủng kiếp. Khối quân Đức bị vây đã tìm mọi cách chạy thoát khỏi cái "chảo lửa" ở Bobruysk, hy vọng có thể cùng với Tập đoàn quân số 4 chống giữ khu vực Berezina và vùng ngoại ô Minsk, nhưng từng đám lính Đức trong tình trạng hỗn loạn đã kẹt cứng ở giao lộ tại Titovka và trở thành mục tiêu cho pháo binh và không quân Xô Viết. Chỉ có một số ít người may mắn thoát chết và chạy được về phía Tây Bắc của thành phố Không lâu sau đó, Tập đoàn quân số 9 tiếp tục bị giáng một đòn hủy diệt khi trụ sở cơ quan thông tin chủ yếu của nó bị san bằng trong một trận không kích. Ngày 26 tháng 6, Hitler huyền chức tướng Hans Jordan vì sai lầm của ông ta trong việc điều động Quân đoàn xe tăng 41. Liên tiếp bị tra tấn bởi những trận oanh tạc và pháo kích dữ dội, quân Đức dần dần rơi vào tình trạng hoảng loạn và mất tinh thần, nhiều người vứt bỏ cả vũ khí tìm cách chạy tháo thân về phía Tây. Từ giữa ngày 28 tháng 6, Tập đoàn quân số 48 (Liên Xô) bắt đầu tổng công kích từ nhiều hướng và nhanh chóng tiêu diệt phần lớn số quân bị vây trong chảo lửa Bobruysk.

Khác với những cuộc bao vây trước đó, quân đội Liên Xô không đưa ra tối hậu thư cho cụm quân Đức bị vây. Mục tiêu sâu xa của chiến dịch Bagration không cho phép làm như vậy. Và cũng khác với các cuộc bao vây trước đó, quân đội Liên Xô không dùng bộ binh và xe tăng để "nói chuyện" với quân Đức như trong các cuộc bao vây trước đó mà dùng không quân và pháo binh. Trong buổi chiều khủng khiếp ngày 28 tháng 6 năm 1944, Tập đoàn quân không quân 16 (Liên Xô) đã huy động toàn bộ số máy bay tiêm kích, cường kích và máy bay ném bom chiến thuật mà họ có trong tay. 134 máy bay tiêm kích Liên Xô tạo thành ba vòng yểm hộ trên không tại các độ cao từ 200 mét đến 3000 mét, đảm bảo an toàn không phận cho các máy bay cường kích và máy bay ném bom hoạt động. 175 máy bay ném bom Pe-2 thực hiện oanh tạc ở độ cao 1.200 mét đến 1.600 mét. Từ độ cao 200 mét đến 1.200 mét, 217 máy bay cường kích IL-2 và Tu-2 tấn công vào các mục tiêu "cứng". Phụ họa vào đó là các trận pháo kích của pháo binh thuộc Tập đoàn quân 48 (Liên Xô). Tập đoàn quân không quân 6 (Đức) bị chia năm xẻ bảy trên khắp chiến trường Byelorussia đã không thể có hành động đáng kể trên không để yểm hộ cho cánh quân Đức bị bao vây ở Đông Nam Bobruysk. Vài tốp Me-109 và Fw-190 với số lượng 4 đến 6 chiếc/tốp đã không thể vượt qua được hàng rào máy bay tiêm kích Liên Xô. Chỉ trong buổi chiều ngày 28 tháng 6, không quân Liên Xô đã ném xuống khu vực này 1.127 quả bom phá từ 50 đến 100 kg, 4.897 quả bom mảnh phá từ 10 đến 25 kg, 5.326 quả bom phá xe tăng, phóng 572 quả rốc két chống tăng, bắn 27.889 quả đạn pháo 37 mm và 45.440 viên đạn súng máy. Tất cả những điều đó tạo thành một cơn bão lửa mà không một ngòi bút nào có thể miêu tả được. Các phi công trinh sát Liên Xô đếm được khoảng 150 xe tăng, pháo tự hành, xe bọc thép, 1.000 súng pháo các cỡ, 6.000 ô tô, 300 xe xích và 3.000 xe ngựa bị phá hủy. Nhưng không ai có thể biết hết được những điều kinh khủng thực sự đã diễn ra trong cơn bão lửa đó. Sau khi được nghe các tướng K. K. Rokossovsky và S. I. Rudenko báo cáo về việc đã thanh toán cụm quân Đức bị vây tại khu vực Bobruysk, Nguyên soái G. K. Zhukov chỉ thốt lên: "Đó là một bản hợp xướng rùng rợn".

Nhằm cứu vãn tình thế, Bộ Tư lệnh tối cao lục quân Đức vội vã điều Sư đoàn xe tăng 12 của tướng Gerhard Müller từ khu vực Drogichin (Drahicyn) - Kobrin kéo tới giải vây. Ngày 30 tháng 6, từ khu vực phía Nam Pukhovichi, quân Đức tổ chức một cuộc tấn công phá vây với sự phối hợp của Sư đoàn xe tăng 12 với tàn quân của Sư đoàn xe tăng 20 trong vòng vây và đã mở được một đột phá khẩu tại khu vực của Sư đoàn bộ binh 356 (Liên Xô), giải cứu khoảng 10.000 quân Đức. Phần lớn số quân này đã lâm vào trạng thái hoảng loạn và không mang vũ khí. Số còn lại tiếp tục hứng chịu những trận oanh kích dữ dội của quân đội Liên Xô và cuối cùng đã phải đầu hàng. 2/3 quân số của Quân đoàn bộ binh 35 và Quân đoàn xe tăng 41 đã bỏ mạng trong các trận không kích và pháo kích của quân đội Liên Xô. Trong số quân kéo cờ trắng ra hàng có thiếu tướng Kurt-Jürgen Freiherr von Lützow, tư lệnh Quân đoàn bộ binh 35 (Đức).

Kết quả và đánh giá

Kết quả

Chiến dịch Bobruysk đã đánh tan tác Tập đoàn quân số 9 của quân đội Đức Quốc xã, giúp quân đội Liên Xô thọc sâu hơn 100 cây số vào hậu tuyến quân Đức, tạo điều kiện thuận lợi cho các đợt tấn công kế tiếp theo hướng Minsk và Baranovichi. Đây là một thắng lợi lớn của quân đội Liên Xô, đạt được trong thời gian ngắn và trên quy mô lớn. Việc triển khai hiệu quả một lực lượng không quân lớn là một trong những yếu tố góp phần làm nên chiến thắng của quân đội Liên Xô trong trận đánh này.

Nhà báo Liên Xô, Vasily Semyonovich Grossman đã miêu tả về thương vong của quân Đức trong chiến dịch Bobruysk như sau:

Các nguồn nghiên cứu của phương Tây ước tính, quân đội Đức Quốc xã tổn thất khoảng 70.000 người trong chiến dịch này, trong đó có khoảng 20.000 tù binh. Thiệt hại của quân đội Liên Xô được cho là dưới mức thông thường, chỉ khoảng 2% đến 2,5% quân số tham gia ban đầu tử trận. Điều quan trọng nhất là quân đội Liên Xô đã tạo ra được một bàn đạp thứ hai để tấn công vào Minsk từ phía Nam. Ở phía Bắc, Phương diện quân Byelorussia 3 đã đánh chiếm Borisov và việc họ tấn công vào Minsk chỉ còn có thể tính từng ngày. Trong khi đó, Tập đoàn quân 4 (Đức) cùng tàn quân của Tập đoàn quân xe tăng 3 và Tập đoàn quân 9 (Đức) vẫn đang cố chống giữ trên khu vực Logoysk (Lahoysk) - Kurgan (Kurhan) - Klichev - Pukhovichi, một "tứ giác" định mệnh đội với Tập đoàn quân này.

Tưởng niệm và ghi công

20 đơn vị Hồng quân có thành tích chiến đấu xuất sắc trong chiến dịch này đã được trao thưởng danh hiệu "Bobruysk".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Bobruysk** là một trong ba chiến dịch mở màn cho các hoạt động tấn công lớn nhất năm 1944 của Quân đội Liên Xô trên chiến trường Byelorussia, diễn ra từ ngày 23
**Chiến dịch Minsk**, một phần của Chuỗi chiến dịch giải phóng Byelorussia vào mùa hè năm 1944, mang mật danh "Bagration", là hoạt động tấn công, hợp vây của quân đội Liên Xô nhằm vào
**Chiến dịch Slutsk–Baranovichi** là một chiến dịch quân sự của Hồng quân Liên Xô nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã, với mục đích khai thác chiến quả của **chiến dịch Bobruysk** và
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch Mogilev** (23 tháng 6 - 28 tháng 6 năm 1944) là một trận tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào quân đội Đức Quốc xã, diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức
**Chiến tranh Nga–Ba Lan** diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến
**Phương diện quân Belorussia 1** (tiếng Nga: _1-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây được xem là phương diện quân
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Sư đoàn Panzer số 4** () là một sư đoàn bọc thép trong Quân đội Đức, Wehrmacht, trong Thế chiến II, được thành lập năm 1938. Sư đoàn Panzer số 4 tham gia vào cuộc