✨Phương diện quân Belorussia 1

Phương diện quân Belorussia 1

Phương diện quân Belorussia 1 (tiếng Nga: 1-й Белорусский фронт) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây được xem là phương diện quân mạnh nhất và là đơn vị tác chiến chiến lược chủ lực của Hồng quân Liên Xô trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, đặc biệt tại chiến dịch Bagration, chiến dịch Wisla-Oder và Chiến dịch Berlin.

Lịch sử

Thành lập

Phương diện quân Belorussia 1 được thành lập vào ngày 24 tháng 2 năm 1944 theo chỉ thị của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao (Stavka) ngày 17 tháng 2 năm 1944, trên cơ sở đổi tên từ Phương diện quân Belorussia, phụ trách hướng chiến lược Tây Belorussia.

Ngay trong khi quá trình thành lập chính thức, từ ngày 21-26 tháng 2 năm 1944, lực lượng cánh phải của phương diện quân đã tiến hành chiến dịch Rogachyov-Zhlobin, chiếm được đầu cầu trên hữu ngạn sông Dniepr, giải phóng Rogachyov.

Ngày 5 tháng 4 năm 1944, theo chỉ thị của Stavka ngày 2 tháng 4 năm 1944, phương diện quân được đổi tên lại thành Phương diện quân Belorussia.

Tái lập

Phương diện quân Belorussia 1 được tái lập ngày 16 tháng 4 năm 1944 theo chỉ thị của Stavka ngày 12 tháng 4 năm 1944, trên cơ sở đổi tên một lần nữa Phương diện quân Belorussia.

Trong Chiến dịch Bagration từ ngày 24 đến 29 tháng 6 năm 1944, lực lượng phương diện quân đã tiến hành chiến dịch Bobruysk, bao vây và tiêu diệt hơn 6 sư đoàn Đức Quốc xã, gây thương vong 40.000 quân Đức. Từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7, phương diện quân tham gia chiến dịch Minsk. Từ ngày 18 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8, lực lượng phương diện quân tiến hành chiến dịch Lublin-Brest, vượt qua sông Wisła, chiếm được đầu cầu Magnushevsky và Pulavsky ở phí tả ngạn, giải phóng các thành phố Brest, Siedlce và Lublin.

Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1944, lực lượng phương diện quân tiến hành các hoạt động chiến đấu để giữ và mở rộng các đầu cầu trên Wisła (đầu cầu Magnushevsky) và Narew (đầu cầu Serotsky, đầu cầu Ruzhany), chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa đông. Trong những cuộc giao chiếc khốc liệt, chỉ riêng tháng 8-9 năm 1944, thương vong của Phương diện quân Belorussia 1 đã vượt quá 170.000 người, trong đó có hơn 30.000 người chết.

Từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 3 tháng 2 năm 1945, lực lượng phương diện quân tham gia Chiến dịch Wisla-Oder, thực hiện chiến dịch Warszawa-Poznan, giải phóng phần trung tâm của Ba Lan và Warszawa, tiến đến sông Oder, thiết lập được đầu cầu ở tả ngạn sông tại Bắc và Nam Kostrzyn. Chỉ riêng trong trận Poznań, từ ngày 25 tháng 1, lực lượng phương diện quân đã bao vây và tiêu diệt cụm 66.000 quân Đức tại thành phố pháo đài Poznań, cuối cùng chiếm được thành phố vào ngày 23 tháng 2.

Từ ngày 10 tháng 2 đến 4 tháng 4, lực lượng cánh phải của phương diện quân tham gia chiến dịch chiến lược Đông Pomerania, giải phóng phần phía Bắc Ba Lan, đồng thời đánh chiếm, củng cố và mở rộng các đầu cầu trên sông Oder.

Sau khi chiếm được Ba Lan và Đông Phổ, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã bố trí lại lực lượng để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Berlin. Lực lượng của phương diện quân Belorussia 1 được triển khai dọc theo sông Oder từ phía Nam Frankfurt đến Baltic, tập trung vào khu vực phía trước Cao nguyên Seelow. Các đơn vị cánh trái của Phương diện quân Belorussia 2 được di chuyển vào các vị trí đang bị bỏ trống bởi Phương diện quân Belorussia 1 ở phía Bắc của Cao nguyên Seelow. Đồng thời với việc tái bố trí, Hồng quân Liên Xô cũng thanh toán các ổ kháng cự còn sót lại của tàn quân Đức ở gần Danzig.

Từ ngày 16 tháng 4 đến 8 tháng 5, lực lượng phương diện quân là mũi tiến công chủ lực trong chiến dịch công phá Berlin, phối hợp với Phương diện quân Belorussia 2 ở cánh Bắc và Phương diện quân Ukraina 1 ở cánh Nam, công phá thủ đô Berlin của Đức Quốc xã. Tuy gặp khó khăn rất lớn trong cuộc tấn công để vượt qua cao nguyên Seelow, nhưng sau 3 ngày, lực lượng phương diện quân đã đột phá qua tuyến phòng thủ kiên cố của quân Đức và tiếp cận vùng ngoại ô Berlin. Đến ngày 25 tháng 4, vòng vây Berlin đã hình thành khi các đơn vị của Phương diện quân Belorussia 1 và Phương diện quân Ukraina 1 gặp nhau tại Kietzen, phía Tây Berlin. Sau một tuần giao chiến ác liệt trên các đường phố Berlin, vào lúc 15:00 giờ địa phương ngày 2 tháng 5, tướng Helmuth Weidling, chỉ huy quân đồn trú tại Berlin, đã gửi thông báo đến tướng Vasily Chuikov tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Ngày 10 tháng 6 năm 1945, phương diện quân được giải tán theo chỉ thị của Stavka ngày 29 tháng 5 năm 1945. Bộ chỉ huy và các đơn vị trực thuộc được tổ chức thành Bộ chỉ huy lực lượng chiếm đóng của Liên Xô tại phần lãnh thổ kiểm soát trên nước Đức.

Lãnh đạo phương diện quân

Tư lệnh

Ủy viên Hội đồng quân sự

Tham mưu trưởng

Biên chế chủ lực

thumb|Cờ hiệu chiến thắng của phương diện quân tại bảo tàng Moskva.

1 tháng 4 năm 1944

  • Tập đoàn quân 3
  • Tập đoàn quân 10
  • Tập đoàn quân 48
  • Tập đoàn quân 50
  • Tập đoàn quân 65
  • Tập đoàn quân không quân 16

1 tháng 7 năm 1944

  • Tập đoàn quân cận vệ 8
  • Tập đoàn quân 3
  • Tập đoàn quân 28
  • Tập đoàn quân 47
  • Tập đoàn quân 48
  • Tập đoàn quân 61
  • Tập đoàn quân 65
  • Tập đoàn quân 69
  • Tập đoàn quân 70
  • Tập đoàn quân xe tăng 2
  • Tập đoàn quân không quân 6
  • Tập đoàn quân không quân 16
  • Tập đoàn quân Ba Lan 1

1 tháng 10 năm 1944

  • Tập đoàn quân cận vệ 8
  • Tập đoàn quân 47
  • Tập đoàn quân 65
  • Tập đoàn quân 69
  • Tập đoàn quân 70
  • Tập đoàn quân không quân 16
  • Tập đoàn quân Ba Lan 1

1 tháng 1 năm 1945

  • Tập đoàn quân cận vệ 8
  • Tập đoàn quân xung kích 3
  • Tập đoàn quân xung kích 5
  • Tập đoàn quân 33
  • Tập đoàn quân 47
  • Tập đoàn quân 61
  • Tập đoàn quân 69
  • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1
  • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2
  • Tập đoàn quân không quân 16
  • Tập đoàn quân Ba Lan 1

1 tháng 4 năm 1945

  • Tập đoàn quân cận vệ 8
  • Tập đoàn quân xung kích 3
  • Tập đoàn quân xung kích 5
  • Tập đoàn quân 33
  • Tập đoàn quân 47
  • Tập đoàn quân 61
  • Tập đoàn quân 69
  • Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1
  • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2
  • Tập đoàn quân không quân 16
  • Tập đoàn quân Ba Lan 1

Các chiến dịch lớn đã tham gia

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phương diện quân Belorussia 1** (tiếng Nga: _1-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây được xem là phương diện quân
**Phương diện quân Belorussia 2** (tiếng Nga: _2-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Hướng tác chiến chủ yếu của phương
**Phương diện quân Belorussia** (tiếng Nga: _Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, với địa bàn tác chiến chủ yếu trên hướng
**Phương diện quân Ukraina 1** (tiếng Nga: _1-й Украинский фронт_) là tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Phương diện quân đã tham gia các chiến
**Phương diện quân Belorussia 3** (tiếng Nga: _3-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Belorussia
**Phương diện quân Pribaltic 1** (tiếng Nga: _1-й Прибалтийский фронт_), còn gọi là **Phương diện quân Baltic 1**, là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ
Cờ hiệu của 10 Phương diện quân Liên Xô có mặt trong giai đoạn cuối cùng của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại **Phương diện quân** (tiếng Nga: _Фронт_, chuyển tự: _Front_) là tổ
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Phương diện quân Trung tâm** (tiếng Nga: _Центральный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện
**Phương diện quân** (tiếng Nga: _Военный фронт_, chữ Hán: _方面軍_) là tổ chức quân sự binh chủng hợp thành cấp chiến dịch chiến lược cao nhất trong quân đội Đế quốc Nga thời đại Sa
**Phương diện quân Tây** (tiếng Nga: _Западный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những phương diện quân chủ
**Phương diện quân Ukraina** (tiếng Nga: _Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô vào đầu Thế chiến thứ hai, với địa bàn tác chiến chủ yếu trên
Trận sông Dniepr là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong các giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng
**Cụm tập đoàn quân** (tiếng Đức: _Heeresgruppe_) là tổ chức tác chiến cấp chiến lược cao nhất của Quân đội Đức Quốc xã, trên cấp Tập đoàn quân. Cũng giống như biên chế phương diện
**Cụm tác chiến Zemland** (__) là một đơn vị tác chiến chiến lược tạm thời cấp phương diện quân của Hồng quân trong Thế chiến thứ hai, hoạt động trong hai tháng tại Bán đảo
**Cụm tập đoàn quân Bắc** () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đặt dưới quyền chỉ huy
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch Wisła – Oder** là chiến dịch tấn công chiến lược lớn của Quân đội Xô Viết trong Chiến tranh Xô-Đức, chiến dịch này diễn ra trong thời gian từ 12 tháng 1 đến
**Konstantin Konstantinovich Rokossovsky** (tiếng Nga: Константин Константинович Рокоссовский, tiếng Ba Lan: _Konstanty Rokossowski_), tên khai sinh là _Konstantin Ksaveryevich Rokossovsky_, (21 tháng 12 năm 1896 – 3 tháng 8 năm 1968) là một chỉ huy
**Pavel Ivanovich Batov** (; - 19 tháng 4 năm 1985) là một tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân trong Thế chiến thứ hai, hai lần Anh hùng Liên Xô. Batov đã chiến đấu trong
**Ivan Khristoforovich Bagramyan** (tiếng Nga: _Иван Христофорович Баграмян_) hay **Hovhannes Khachatury Baghramyan** (tiếng Armenia: _Հովհաննես Խաչատուրի Բաղրամյան_) (sinh ngày 2 tháng 12, lịch cũ ngày 20 tháng 11, năm 1897, mất ngày 21 tháng 9
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
**Hamazasp Khachaturi Babadzhanian** (; 1906-1977), hay **Amazasp Khachaturovich Babadzhanyan** () trong tiếng Nga), là một lãnh đạo quân sự Liên Xô người gốc Armenia, hàm Chánh nguyên soái binh chủng thiết giáp, Anh hùng Liên
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến
Ở Liên Xô, một **quân khu** (tiếng Nga: **вое́нный о́круг**, voyenny okrug) là một tổ hợp theo lãnh thổ các đơn vị quân đội, quân binh chủng, trường quân sự và các cơ sở hành
**Ivan Nikitovich Kozhedub** (tiếng Nga: _Иван Никитович Кожедуб;_ tiếng Ukraina: Іван Микитович Кожедуб) (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1920, mất ngày 12 tháng 8 năm 1991) là một phi công ace nổi tiếng của
**Giải phóng** (tiếng Nga: _Освобождение_) là một bộ phim lịch sử của Yury Ozerov về chiến tranh Vệ quốc 1941-1945, với bối cảnh chính diễn ra trong khoảng thời gian từ mùa hè năm 1943
**Mikhail Sergeyevich Malinin** (; tại Polutino, Kostroma, Đế quốc Nga - 24 tháng 1 năm 1960 tại Moskva, Liên Xô) là một tướng lĩnh Liên Xô. ## Tiểu sử ### Thiếu thời Mikhail Malinin sinh
**Đại tướng lục quân** (, _general armii_), tài liệu tiếng Việt thường gọi tắt là **Đại tướng**, là một cấp bậc cao cấp trong Quân đội Liên Xô, được thành lập lần đầu tiên vào
**Semyon Moiseyevich Krivoshein** (tiếng Nga: _Семён Моисеевич Кривошеин_; 1899 - 1978) là một chỉ huy của lực lượng xe tăng Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người đã đóng vai trò quan
**Khu phòng thủ Moskva** (tiếng Nga: _Московская зона обороны_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, đảm nhận phòng thủ ngay nội đô Moskva
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Pyotr Petrovich Sobennikov** (; 1894 - 1960) là một tướng lĩnh quân đội Liên Xô, hàm Trung tướng. ## Sự nghiệp Sobennikov sinh năm 1894 ở Kronstadt, trong một gia đình quý tộc Nga. Ông
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Ivan Vasilievich Boldin** (; , tại Vysokaya - 28 tháng 3 năm 1965 tại Kiev) là một tướng lĩnh cấp cao của Hồng quân trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Bước đầu binh
**Ivan Danilovich Chernyakhovsky** hay **Cherniakhovsky** (tiếng Nga: _Ива́н Дани́лович Черняхо́вский_) (sinh ngày 29 tháng 6, lịch cũ ngày 16 tháng 6 năm 1906, hy sinh ngày 18 tháng 2 năm 1945) là một chỉ huy
(tiếng Nga: Алексе́й Инноке́нтьевич Анто́нов; 1896-1962) là một Đại tướng trong Hồng quân Liên Xô, tổng tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Liên Xô vào giai đoạn kết thúc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Georgy Fyodorovich Zakharov** (; 1897-1957) là một tướng lĩnh Liên Xô, phục vụ trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Thiếu thời Zakharov sinh ngày 23 tháng 4 năm 1897 tại làng Shilov, Nga
**Semion Pavlovich Ivanov** (; 13 tháng 9 năm 1907 - 26 tháng 9 năm 1993) là một tướng lĩnh Liên Xô. ## Tiểu sử ### Thiếu thời Ivanov sinh ra trong một gia đình nông
**Chiến dịch Đông Phổ** là chiến dịch quân sự của quân đội Liên Xô chống quân đội Đức Quốc xã ở Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ hai). Chiến dịch bắt đầu
**Vasily Iosifovich Stalin** (, ; họ gốc **Dzhugashvili**; , ; 1921-1962) là con trai út của Iosif Stalin với người vợ thứ hai, Nadezhda Alliluyeva. Khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô năm 1941,
**Sư đoàn bộ binh ô tô Cận vệ số 2 "Taman", Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Suvorov, mang tên M. I. Kalinin** (), hoặc gọi đơn giản là
nhỏ|Gotthard Heinrici **Gotthardt Heinrici** (25 tháng 12 năm 1886 – 13 tháng 12 năm 1971) là một vị tướng bộ binh và thiết giáp của Đệ tam Đế chế Đức, đã được thăng đến cấp
**Konstantin Fyodorovich Telegin** (; , Tatarsk, Đế quốc Nga - 16 tháng 11 năm 1981, Moskva, Liên Xô) là một tướng lĩnh và một sĩ quan chính trị Liên Xô. ## Tiểu sử ### Thiếu