✨Paul von Lettow-Vorbeck

Paul von Lettow-Vorbeck

Paul Emil von Lettow-Vorbeck (20 tháng 3 năm 1870 – 9 tháng 3 năm 1964), tướng lĩnh trong Quân đội Đế quốc Đức, chỉ huy Chiến dịch Đông Phi thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Là người chỉ huy một đội quân thuộc địa nhỏ bé nhưng thiện chiến của Đức tại Đông Phi,, khiến ông trở thành vị anh hùng huyền thoại của nước Đức khi đó Những người ngưỡng mộ ông (trong đó có nhiều tướng lĩnh Đồng minh) cũng tôn vinh ông như một chiến binh cao thượng, lãng mạn, và "Hùng sư của Phi châu". trong khi chính sử của Đế quốc Đức coi đây là một "phép màu trong lịch sử thế giới" Đến cả tướng Anh Jan Christian Smuts - kỳ phùng địch thủ của ông, cũng trở nên rất ngưỡng mộ và nể trọng Vorbeck.

Vào năm 1907 ông được thăng hàm đại úy, phục vụ trong bộ chỉ huy Quân đoàn 11. Từ tháng 3 năm 1909 tới tháng 1 năm 1913, von Lettow-Vorbeck chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến Tiểu đoàn 2 tại Wilhelmshaven thuộc miền Hạ Sachsen, nước Đức. Vào tháng 10 năm 1913, với quân hàm Thiếu tá, ông được bổ làm chỉ huy lực lượng thuộc địa Đức gọi là Schutztruppe (lực lượng bảo hộ) tại xứ Kamerun thuộc Đức (nay là Cameroon và một phần Nigeria). Trước khi ông kịp nhận nhiệm sở, nhiệm vụ của ông thay đổi, và ông được điều đến Đông Phi thuộc Đức, nay là lãnh thổ Tanzania trên lục địa châu Phi.

Trong hành trình tới nhiệm sở, von Lettow-Vorbeck đánh bạn với nữ tác giả người Đan Mạch, vốn đi cùng chuyến tàu với ông. Nhiều thập niên sau đó, bà cho biết "ông ấy là kiểu người thế hệ cũ, tôi chưa bao giờ gặp một người Đức nào gây cho tôi ấn tượng sâu sắc về bản chất và giá trị Đế quốc Đức đến thế."

Von Lettow-Vorbeck cho rằng cuộc chiến giữa nước Đức với các đế quốc thực dân khác là khó có thể tránh khỏi. Do đó, ông khẩn trương xây dựng đội quân bao gồm các binh sĩ người Đức và 12 đại đội người bản sứ gọi là quân Askaris, để sẵn sàng cho cuộc chiến. Chính nhờ đó, ông đã có thể nắm ngay thế chủ động khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

nhỏ|trái|Bích trương cổ động Chiến tranh thế giới thứ nhất của Đức, tướng Paul von Lettow-Vorbeck trên lưng ngựa, chỉ huy binh lính Phi châu. Hàng chữ phía trên có nghĩa Ngân quỹ chiến tranh thuộc địa, phía dưới là chữ ký của von Lettow-Vorbeck

Tháng 8 năm 1914, trong giai đoạn đầu của cuộc Đại chiến, von Lettow-Vorbeck chỉ huy một đơn vị quân nhỏ, gồm 2.600 binh sĩ Đức và 2.472 binh sĩ người Phi, chia làm 14 đại đội dã chiến Askari. Nhận thức được sự quan trọng của việc nắm thế chủ động, ông lờ đi mệnh lệnh từ Berlin và từ Toàn quyền xứ thuộc địa Heinrich Schnee, người chủ trương giữ trung lập cho Đông Phi thuộc Đức. Von Lettow-Vorbeck phớt lờ vị Toàn quyền, và chuẩn bị sẵn sàng đánh lui cuộc đổ bộ đường biển vào thành phố Tanga. Sự bất tuân ông đối với quan Toàn quyền Schnee đã khiến cho ông không những có thể để đánh bại các đợt tấn công của địch mà còn tràn sang đất địch nữa. Chính sử Anh Quốc ghi nhận trận Tanga là một trong những thất bại thê lương nhất trong lịch sử nước nhà. Tiếp đó, ông tập hợp binh sĩ và số quân nhu ít ỏi của mình, rồi tập kích vào tuyến xe lửa của Đế quốc Anh tại Đông Phi. Với 244 quân Đức, 1.350 quân dã chiến askaris và 400 quân tuyển mộ người Ả Rập, ông đánh thắng đội quân bị áp đảo về quân số của Anh trong trận Jassin ngày 8 tháng 1 năm 1915, bắt được khoảng 300 tù binh.

Các chiến thắng này rất quan trọng vì chúng giúp ông chiếm được số súng trường kiểu mới mà ông rất cần để trang bị cho binh sĩ, cũng như các tiếp liệu khác, đồng thời khích lệ tinh thần binh sĩ dưới quyền. Tuy nhiên, ông cũng mất mát nhiều sĩ quan tùy tùng dày dạn kinh nghiệm, trong đó có cả viên đại úy tài năng Tom von Prince, người mà ông khó lòng thay thế được. Kế hoạch tác chiến của von Lettow-Vorbeck rất đơn giản: nhận định rằng Đông Phi chỉ là chiến trường phụ, ông quyết tâm cầm chân càng nhiều quân lính Anh càng tốt, giữ họ khỏi chiến trường châu Âu, và như vậy đóng góp vào thắng lợi của Đức.

nhỏ|phải|Đại đội Schutztruppe Askari (1914) Những chiến thắng này đã mang lại tiếng tăm cho ông, nhiều người đương thời so sánh ông với Hermann von Wissman - người sáng lập huyền thoại của xứ thuộc địa Đông Phi, và trở thành người hùng của nước Đức. Do những tổn thất nhân lực khó có thể bù đắp được, ông chuyển chiến thuật, tránh đụng độ trực tiếp với quân Anh, hạ lệnh cho binh sĩ dưới quyền tập kích vào lãnh thổ Đông Phi thuộc Anh, (nay là Kenya, Uganda và Rhodesia), đánh phá đồn bốt, đường xe lửa, trạm thông tin—với mục đích buộc phe Đồng Minh phải phân tán binh lực từ chiến trường chính tại châu Âu. Ông nhận thức được sự cần thiết của chiến tranh du kích, thể hiện trong việc ông sử dụng tất cả phương tiện có trong tay để đảm bảo quân nhu.

Lực lượng Schutztruppe tuyển mộ thêm binh sĩ, và phát triển tới chừng 14.000 binh sĩ, đa phần là quân Askaris, tất cả được huấn luyện chu đáo và có kỷ luật. Von Lettow-Vorbeck sử dụng thành thạo tiếng Swahili của người bản xứ nên được binh sĩ Phi châu của ông kính trọng và ngưỡng mộ; ông cũng bổ nhiệm sĩ quan người da đen, nói —và tin tưởng rằng —"ở đây tất cả chúng ta là người Phi châu". Theo một sử gia, "Có lẽ không một chỉ huy người da trắng nào thời đó nhận thức được giá trị của người châu Phi, không chỉ như một chiến binh, mà như một con người, như ông". Đoàn quân của ông dùng chiến thuật du kích, áp dụng chiến thuật "đánh và chạy" thật nhanh để dễ bề công kích những tiền đồn của quân Anh, và thực hiện vườn không nhà trống để buộc cư dân phải hỗ trợ cho họ hoặc là phải trả một cái giá thật đắt.

nhỏ|Trọng pháo từ chiến hạm Königsberg được sử dụng trên đất liền Khi tuần dương hạm "SMS Königsberg" của Đức phải bị đánh chìm (năm 1915 tại châu thổ sông Rufiji bởi thủy thủ đoàn), ông thu được một thủy thủ đoàn giàu năng lực dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Max Looff, cùng với số hải pháo mà tàu này được trang bị. Số hải pháo này được chuyển thành pháo đánh bộ, và là số pháo có cỡ nòng lớn nhất tại mặt trận này. Ông cho các tân binh này vận quân phục của các binh sĩ người châu Phi, và cũng trả mức lương tương đương với các binh sĩ dã chiến Askari. Thậm chí, ông còn trang bị cho họ vũ khí cũ hơn quân lính dã chiến Askari. Các binh sĩ người Phi châu gọi họ là lính Askari người Âu châu. Vào tháng 2 năm 1916, đạo quân của Lettow-Vorbeck đập tan một cuộc công kích của quân Anh trong trận đồi Salaita. Quân Anh - Nam Phi không phá nổi hệ thống phòng thủ rắn chắc của phía Đức và phải tháo chạy trong khi quân Đức - Đông Phi thừa thắng tiến hành phản công. Trận Mahiwa là trận đánh duy nhất của chiến trường Đông Phi trong năm 1917 Trận Mahiwa trận đánh duy nhất của chiến trường Đông Phi trong năm 1917 Chính sử của Đức khi đó có khen ngợi những chiến công của ông trong Chiến dịch Đông Phi trong Chiến tranh thế giới thứ nhất:

Von Lettow-Vorbeck giờ phải bắt đầu triệt thoái về phía nam, buộc phải cắt giảm phân nửa khẩu phần binh lính, bị quân Anh truy đuổi ráo riết. Ngày 25 tháng 11 năm 1917 cánh quân tiền phương của ông vượt sông Rovuma tiến vào lãnh thổ Mozambique thuộc Bồ Đào Nha. Vậy là trên thực tế, ông đã cắt đứt đường tiếp tế của chính mình, và đoàn quân Schutztruppe lữ hành nay biến thành một bộ tộc du mục. Trong ngày đầu vượt sông, họ tấn công một binh trạm của Bồ Đào Nha vừa được nhận tiếp tế trong trận Ngomano và bằng cách đó tạm giải quyết được vấn đề tiếp liệu Tiếp đó họ chiếm được một tàu hơi nước chở thuốc men, trong đó có cả thuốc quinine trị sốt rét, và như tạm thời không phải lo về thuốc men nữa. Gần như trong suốt một năm, họ phải tìm cách tự cung tự cấp, chủ yếu bằng cách chiếm lương thực từ quân Anh và quân Bồ Đào Nha; hơn thế nữa, họ còn tái trang bị, thay thế súng trường kiểu cũ của mình bằng loại súng mới hơn, cùng với súng máy và súng cối, sau khi chiếm được Namakura (Nhamacurra nay là Mozambique) tháng 7 năm 1918. Kết quả là họ nay có nhiều đạn dược hơn là số họ có thể mang theo được.

trái|nhỏ|Von Lettow-Vorbeck đầu hàng quân Anh tại Abercorn, tranh vẽ bởi một họa sĩ người châu Phi Tháng 1 năm 1918, lính askari dưới quyền ông đã đánh bại một đơn vị thuộc địa do Anh gửi đến để truy bắt ông, và vào tháng 8 năm 1918, ông tiêu diệt một lực lượng Ấn Độ khác. rồi tiếp tục tiến theo hướng tây nam về tỉnh Katanga. Khi ông đến sông Chambeshi sáng 14 tháng 11, viên thẩm phán người Anh Hector Croad mang cờ trắng trình diện, trao cho ông lá thư từ vị tướng quân Đồng minh van Deventer, thông báo cho ông biết về lệnh hưu chiến. Số binh sĩ còn sống sót của ông trong đạo quân này gồm 30 sĩ quan Đức, 125 hạ sĩ quan và binh lính Đức, 1.168 chiến sĩ Askaris cùng khoảng 3.500 phu khuân vác.

Von Lettow-Vorbeck trở về nước Đức vào đầu tháng 3 năm 1919, và được chào đón như một vị anh hùng. Trên lưng con ngựa màu đen, ông dẫn đầu 120 sĩ quan của lực lượng Schutztruppe trong quân phục nhiệt đới rách bươm của họ trong một cuộc diễu binh chiến thắng qua cổng Brandenburg, cánh cổng được trang hoàng để vinh danh họ. Mặc dù ông cuối cùng đã đầu hàng theo mệnh lệnh; ông liên tục đánh bại các địch thủ có ưu thế về quân số, đồng thời là vị chỉ huy duy nhát của Đức xâm lược thành công lãnh thổ Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Di sản

Năm von Lettow-Vorbeck qua đời, quốc hội Tây Đức bỏ phiếu thông qua quyết định truy lĩnh lương cho tất cả các binh sĩ Askaris còn sống sót của ông. Một văn phòng kế toán được lập ra tại Mwanza bên hồ Victoria. Tuy nhiên trong số 350 cựu binh có mặt, chỉ có rất ít người có thể trình ra giấy chứng nhận mà von Lettow-Vorbeck trao cho họ năm 1918. Những người khác chỉ có thể đưa ra những mảnh quân phục cũ của họ làm bằng chứng cho quá trình phục vụ trong quân ngũ của họ. Nhân viên thủ quỹ người Đức, người chịu trách nhiệm chi trả tiền lương, nghĩ ra một cách. Tất cả những người tự nhận là cựu binh Askaris được gọi ra, trao cho một cái chổi, và được lệnh thao tác bồng súng chào, bằng tiếng Đức. Không có bất kỳ cựu binh nào không thực hiện được phép thử này.

Để vinh danh, bốn doanh trại của quân đội liên bang Đức, hay Bundeswehr được mang tên ông, tại Leer, Hamburg-Jenfeld, Bremen và Bad Segeberg. Tuy nhiên sau việc 178 căn cứ quân sự phải đóng cửa trong cuộc tinh giản quân đội, chỉ còn một doanh trại là Lettow-Vorbeck-Kaserne tại Leer, Ostfriesland.

Mùa xuân năm 2010, hội đồng thành phố Saarlouis đổi tên đường Von Lettow-Vorbeck-Straße. Tại Hanover, đường Lettow-Vorbeck Straße được đổi thành Namibia Straße. Tại Wuppertal, Cuxhaven, Mönchengladbach, Radolfzell và Halle vẫn còn những con phố mang tên von Lettow-Vorbeck.

Phần lớn lịch sử chiến dịch của von Lettow-Vorbeck tại châu Phi trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã được đề cập đến trong cuốn sách Speak Swahili, Dammit! (2011) của James Penhaligon, cũng như cuốn sách The Bridge Buildes (Brobyggarna trong tiếng Thụy Điển) của Jan Guillou (2011). Một bộ phim Đức, Lettow-Vorbeck: Der deutsch-ostafrikanische Imperativ, được sản xuất vào năm 1984.

Một loại khủng long, Dysalotosaurus lettowvorbecki, được lấy tên von Lettow-Vorbeck.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Paul Emil von Lettow-Vorbeck** (20 tháng 3 năm 1870 – 9 tháng 3 năm 1964), tướng lĩnh trong Quân đội Đế quốc Đức, chỉ huy Chiến dịch Đông Phi thời Chiến tranh thế giới thứ
**Đông Phi thuộc Đức** (, viết tắt tiếng Đức là _GEA_) là thuộc địa của Đế quốc Đức ở Đông Phi. Lãnh thổ của nó thuộc về Rwanda, Burundi, Tanzania và bắc Mozambique ngày nay,
**Trận Jassin** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra từ ngày 18 cho đến ngày 19 tháng 1 năm 1915, gần Jassin, nằm không xa Tanga về
Ngày **9 tháng 3** là ngày thứ 68 (69 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 297 ngày trong năm. ## Sự kiện *141 TCN – Thái tử Lưu Triệt kế vị hoàng đế triều