✨HMAS Australia (1911)
HMAS _Australia_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp Indefatigable được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được chính phủ Australia đặt hàng vào năm 1909, nó được hạ thủy vào năm 1911, và được đưa ra hoạt động như là soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia mới thành lập vào năm 1913. Australia là chiếc tàu chiến chủ lực duy nhất từng phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia.
Vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, Australia được giao nhiệm vụ tìm và tiêu diệt Hải đội Đông Á Đức Quốc, vốn bị thúc đẩy rút lui khỏi Thái Bình Dương do sự hiện diện của chiếc tàu chiến-tuần dương. Các hoạt động phân tán nhằm hỗ trợ cho việc chiếm đóng các thuộc địa của Đức tại New Guinea và Samoa, cũng như hành động quá thận trọng của Bộ Hải quân Anh đã khiến nó không thể đối đầu với hải đội Đức cho đến khi chúng bị tiêu diệt trong Trận chiến quần đảo Falkland. Sau đó Australia được điều về hoạt động tại khu vực Bắc Hải, vốn chủ yếu bao gồm các cuộc tuần tra và tập trận cho đến khi chiến tranh kết thúc. Trong thời gian này, nó tham gia vào các hoạt động không lực hải quân đầu tiên, và 11 người của nó đã tham gia cuộc bắn phá Zeebrugge. Chiếc tàu chiến-tuần dương đã không thể tham gia trận Jutland vì nó đang được sửa chữa sau vụ tai nạn va chạm với tàu chị em New Zealand. Nó chỉ khai hỏa hai lần: một lần vào một tàu buôn Đức vào tháng 1 năm 1915, và một lần do nhầm tưởng một tàu ngầm vào tháng 12 năm 1917.
Trong chuyến đi quay trở về vùng biển Australia, nhiều thủy thủ của chiếc tàu chiến đã làm binh biến sau khi một yêu cầu có thêm một ngày nghỉ phép tại Fremantle bị từ chối, cho dù nhiều vấn đề khác, bao gồm việc được cho nghỉ phép tối thiểu trong thời gian chiến tranh, tiền lương thấp kém, và sự phân biệt đối xử với thủy thủ Australia so với người gốc Anh trong việc đề bạt thăng chức, cũng góp phần vào vụ binh biến. Sự cắt giảm ngân sách quốc phòng sau chiến tranh đã khiến vai trò của Australia bị hạ thấp thành một tàu huấn luyện trước khi nó được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1921. Quá trình giải trừ quân bị do Hiệp ước Hải quân Washington đã buộc phải loại bỏ Australia khỏi thành phần hải quân của Đế quốc Anh để đạt được giới hạn về tải trọng tàu chiến đặt ra, và con tàu bị đánh đắm ngoài khơi Sydney vào năm 1924.
Thiết kế
Thiết kế của lớp tàu chiến-tuần dương Indefatigable chủ yếu dựa trên lớp Invincible dẫn trước. Khác biệt chính là thiết kế của Indefatigable được mở rộng cho phép các tháp pháo bên mạn có được góc bắn rộng hơn. Các con tàu này nhỏ hơn và không được bảo vệ tốt như chiếc tàu chiến-tuần dương Đức đương thời Von der Tann và các thiết kế Đức tiếp theo. Trong khi đặc tính của Von der Tann đã không được biết đến khi chiếc dẫn đầu của lớp Indefatigable được đặt lườn vào tháng 2 năm 1909, Hải quân Hoàng gia đã có được thông tin chính xác về con tàu Đức khi công việc chế tạo Australia và con tàu chị em New Zealand được bắt đầu.
Australia có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu tối đa của mớn nước là . Nó có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn là , và lên đến khi chất đầy tải. Các turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp của chiếc tàu chiến-tuần dương được thiết kế để sản sinh công suất , giúp con tàu đạt đến vận tốc . Tuy nhiên, khi tiến hành chạy thử máy vào năm 1913, các turbine của Australia đã đạt đến công suất , cho phép nó di chuyển với vận tốc . Con tàu mang theo khoảng than và thêm dầu đốt, vốn được phun vào than để gia tăng tốc độ đốt.
Australia mang theo tám khẩu pháo BL Mark X, kiểu pháo lớn nhất từng được trang bị cho một tàu chiến Australia. Nó cũng được trang bị hai ống phóng ngư lôi ngầm hai bên mạn, phía sau tháp pháo 'X', và mang theo 12 quả ngư lôi.
Tháp pháo 'A' của Australia được trang bị một máy đo tầm xa phía sau nóc tháp pháo, và nó cũng được trang bị để kiểm soát toàn bộ dàn pháo chính dự phòng trường hợp các vị trí kiểm soát hỏa lực thông thường bị hư hại hay sự liên lạc bị gián đoạn.
Các cải biến trong thời chiến
Australia được bổ sung một khẩu QF 3 inch 20 cwt (76 mm) phòng không trên bệ góc cao Mark II vào tháng 3 năm 1915. nó được cung cấp 500 quả đạn. Thêm một khẩu 4 inch được bổ sung như vũ khí phòng không vào năm 1917. Nó được gắn trên bệ góc cao Mark II với góc nâng tối đa đến 60°; và sử dụng một liều thuốc phóng giảm bớt cung cấp một lưu tốc đầu đạn chỉ có ; nó được cung cấp 100 quả đạn. Một lớp giáp dày 1 inch được bổ sung ở khoảng giữa các tháp pháo giữa tàu sau Trận Jutland. Vào cuối Thế Chiến I, Australia được mô tả như là "chiếc ít lạc hậu nhất trong lớp của nó".
Sau chiến tranh, cả hai khẩu pháo phòng không đều được thay thế bởi một cặp pháo QF 4-inch Mark V trên bệ góc cao vận hành bằng tay vào tháng 1 năm 1920. Góc nâng của chúng bị giới hạn trong khoảng -5° đến 80°. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và một tốc độ bắn 10-15 phát mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là .
Sở hữu và chế tạo
Vào đầu thế kỷ 20, Bộ Hải quân Anh vẫn duy trì một khả năng phòng thủ hải quân khắp Đế chế Anh, bao gồm cả các thuộc địa, vốn được thống nhất bên trong Hải quân Hoàng gia. Quan điểm tập quyền trong vấn đề này trở nên mềm dẻo hơn trong thập niên đầu tiên, và vào Hội nghị Đế chế 1909, Bộ Hải quân đề nghị thành lập các Đơn vị Hạm đội Bản xứ: lực lượng bao gồm một tàu chiến-tuần dương, ba tàu tuần dương hạng nhẹ, sáu tàu khu trục và ba tàu ngầm. Mặc dù một số sẽ được Hải quân Hoàng gia sử dụng tại các căn cứ cách xa chính quốc, đặc biệt là tại Viễn Đông; các thuộc địa tự trị được thuyết phục để sở hữu một đơn vị hạm đội nhằm phục vụ như là hạt nhân của một hải quân quốc gia mới. Australia và Canada được khuyến cáo làm như vậy vào dịp sớm nhất, còn New Zealand được kêu gọi để đóng góp một phần một đơn vị hạm đội dành cho Trạm Trung Quốc. Mỗi đơn vị hạm đội được thiết kế như một "hải quân thu nhỏ", và sẽ hoạt động dưới quyền kiểm soát của chính phủ thuộc địa tự trị trong thời bình.
Ngày 9 tháng 12 năm 1909, một bức điện được Toàn quyền Australia William Ward gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, Robert Crewe-Milnes, yêu cầu việc chế tạo ba tàu tuần dương lớp Town và một tàu chiến-tuần dương lớp Indefatigable được tiến hành vào dịp sớm nhất có thể. Vẫn không rõ là tại sao thiết kế này lại được chọn khi người ta đã biết là nó yếu kém hơn so với những tàu chiến-tuần dương đang được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Đức. Có ý kiến cho rằng yêu cầu này là do thực hành của Hải quân Hoàng gia sử dụng các thiết giáp hạm nhỏ và tàu tuần dương lớn làm soái hạm cho các trạm ở cách xa Anh Quốc, hoặc ảnh hưởng bởi sự ưa chuộng tàu chiến-tuần dương của Thứ trưởng Hải quân, Thủy sư Đô đốc John Fisher, một quan điểm ít được người khác tán đồng.
Chính phủ Australia quyết định về cái tên Australia, vì điều này sẽ giúp tránh được những khiếu nại về sự thiên vị hay gắn bó với một tiểu bang hay lãnh thổ cụ thể nào của Australia. Ngày 6 tháng 5 năm 1910, George Reid, Cao ủy Australia tại Anh, gửi một bức điện cho Chính phủ Australia đề nghị đặt tên con tàu theo Vua George V vừa mới đăng quang, nhưng đã bị từ chối.
Việc đấu thầu chế tạo được George Reid chuyển tiếp cho Chính phủ Australia vào ngày 7 tháng 3 năm 1910, và Thủ tướng Alfred Deakin chấp thuận dự thầu của hãng John Brown & Company để chế tạo lườn tàu và hệ thống động lực, trong khi các hợp đồng riêng lẻ được giao cho Armstrong và Vickers để chế tạo vũ khí cho chiếc tàu chiến-tuần dương. Tổng chi phí chế tạo chiếc tàu chiến được đặt ra ở mức 2 triệu Bảng Anh. Con tàu được hạ thủy dưới sự đỡ đầu của Lady George Reid vào ngày 25 tháng 10 năm 1911, trong một buổi lễ được sự quan tâm của giới truyền thông. Trong khi dự định toàn bộ con tàu sẽ được trang bị kiểu tấm giáp mới, những vấn đề về chế tạo đã khiến kiểu tấm giáp cũ được sử dụng trên một số vị trí, và việc trì hoãn cung cấp các tấm giáp cũ làm cho việc chế tạo bị chậm trễ mất nữa năm.
Trong quá trình chế tạo, Bộ trưởng Hải quân Anh Winston Churchill tìm cách thu xếp cho Australia được giữ lại vùng biển Anh sau khi hoàn tất. Mặc dù được tính toán dựa trên những cơ sở chiến lược, lý do phía sau nó là để một con tàu do Australia đài thọ có thể thay thế một chiếc được mua bằng ngân sách quốc phòng của Anh.
Vào lúc hạ thủy, thành phần thủy thủ đoàn tiêu chuẩn của con tàu là 820 người, trong đó hơn phân nửa là nhân sự Hải quân Hoàng gia, một nửa kia là những người sinh tại Australia hay nhân sự của Hải quân Hoàng gia được chuyển sang Hải quân Hoàng gia Australia. Các chỗ nghỉ ngơi trên tàu rất chật chội, mỗi người chỉ có khoảng trống để mắc võng của mình khi Australia có đầy đủ biên chế. Vào lúc bàn giao, Australia là chiếc tàu chiến lớn nhất ở phía Nam bán cầu.
Lịch sử hoạt động
Chuyến đi đến Australia
Sau khi đi vào hoạt động, Australia là nơi tổ chức nhiều sự kiện chính thức. Vào ngày 30 tháng 6 năm 1913, Vua George V và Hoàng tử xứ Wales Edward viếng thăm Australia để từ biệt con tàu; trong cuộc viếng thăm, Vua George V đã phong tước hiệp sĩ cho Patey trên sàn sau của chiếc tàu chiến-tuần dương, một cuộc phong tước đầu tiên cho một sĩ quan hải quân trên một chiến hạm kể từ thời Francis Drake. Ngày 1 tháng 7, Patey tổ chức một buổi tiệc có sự tham gia của nhiều quan chức cao cấp của Đế chế, bao gồm Reid, Tổng đại diện các tiểu bang của Australia, Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill, Bộ trưởng Thuộc địa Lewis Vernon Harcourt cùng cao ủy các thuộc địa tự trị thuộc Đế chế Anh khác. Xế chiều hôm đó, 600 kiều dân Australia được mời đến trong một buổi lễ chia tay, được thưởng thức các màn trình diễn và pháo hoa. Hai chiếc tàu chiến Australia đã thả neo tại vịnh Table từ ngày 18 đến ngày 26 tháng 8, nơi thủy thủ đoàn tham gia các cuộc diễu hành và tiếp đón, trong khi hàng chục ngàn người đến tham quan con tàu. Hai chiếc tàu chiến cũng viếng thăm Simon's Town, riêng Australia còn ghé qua Durban. Chúng không ghé qua cảng chính nào khác trong suốt hành trình, và các con tàu được chỉ thị tránh mọi cảng lớn của Australia. nhỏ|phải|alt=A large warship sailing in calm waters. Black smoke is being emitted by the foremost exhaust funnel, and is obscuring the ship's forward masts|Australia trên đường đi trong vùng biển Queensland Trong tháng 7 năm 1914, Australia cùng các đơn vị khác của Hải quân Hoàng gia Australia thực hiện chuyến đi huấn luyện tại vùng biển Queensland. Ngày 27 tháng 7, Ủy ban Hải quân Thịnh vượng chung Australia biết được qua đường điện tín báo chí là Bộ Hải quân Anh cho rằng chiến tranh sắp xảy ra và sẽ lan rộng tại châu Âu tiếp theo sau vụ Khủng hoảng tháng 7, và đã bắt đầu bố trí các hạm đội của họ như một biện pháp phòng ngừa. Ba ngày sau, Ủy ban được tin bức điện báo động chính thức đã được gửi lúc 22 giờ 30 phút, và Australia được gọi quay trở lại Sydney để tiếp than và bổ sung tiếp liệu.
Ngày 3 tháng 8, Hải quân Hoàng gia Australia được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Hải quân Anh. Mệnh lệnh cho các tàu chiến Australia phải chuẩn bị trong vòng vài ngày: Australia được lệnh tập trung cùng lực lượng Hải quân Anh tại Trạm Trung Quốc, nhưng được phép truy tìm và tiêu diệt mọi tàu chiến đối phương (đặc biệt là của Hải đội Đông Á Đức) tại Trạm Australia trước đó. Phó Đô đốc Maximilian von Spee, Tư lệnh hải đội Đức, đã nhận thức về sự hiện diện của Australia trong khu vực và sự vượt trội của nó đối với tất cả lực lượng dưới quyền của mình; kế hoạch của vị Đô đốc Đức là quấy rối tàu bè và thuộc địa Anh tại Thái Bình Dương cho đến khi sự hiện diện của Australia và Hải đội Trung Hoa buộc hạm đội dưới quyền phải tái bố trí đến vùng biển khác.
Phòng thủ vùng biển nhà
Đế quốc Anh tuyên chiến với Đức vào ngày 5 tháng 8, và Hải quân Hoàng gia Australia bước vào hoạt động. Rabaul, thủ đô của lãnh thổ thuộc địa này, được xem là một căn cứ hoạt động tiềm năng cho lực lượng của von Spee, và Patey vạch ra kế hoạch để quét sạch cảng này.
Vào cuối tháng 8, Australia và Melbourne hộ tống một lực lượng New Zealand chiếm đóng Samoa thuộc Đức. Patey tin rằng hạm đội Đức rất có thể đang ở về phía Đông Thái Bình Dương, và việc tiến đến Samoa là một bước đi hợp lý. Việc hộ tống các tàu chuyển quân New Zealand là một sự trùng hợp có ích, cho dù thời gian có thể được bố trí tốt hơn, vì một lực lượng viễn chinh Australia nhằm chiếm đóng New Guinea đã khởi hành từ Sydney chỉ vài ngày sau khi lực lượng New Zealand rời vùng biển nhà, và Australia được dự định để hỗ trợ cho cả hai; nhưng Patey chỉ biết được về các cuộc viễn chinh sau khi chúng đã lên đường. Chiếc tàu chiến-tuần dương rời Cảng Moresby vào ngày 17 tháng 8, gặp gỡ Melbourne trên đường đi vào ngày 20 tháng 8. Sự kiện chiếc Monowai bị mắc cạn đã trì hoãn việc khởi hành của lực lượng viễn chinh cho đến ngày 23 tháng 8; các con tàu đến Suva, Fiji vào ngày 26 tháng 8, và đi đến ngoài khơi Apia sáng sớm ngày 30 tháng 8. Thành phố đã đầu hàng mà không kháng cự, cho phép Australia và Melbourne khởi hành vào trưa ngày 31 tháng 8 để gặp gỡ lực lượng Australia đang hướng đến Rabaul. nhỏ|trái|alt=A line of four ships underway: the rightmost ship is the closest to the camera, while the leftmost ship is very distant. A landmass stretches along the horizon, behind the ships.|Australia dẫn đầu các tàu chiến thuộc [[Lực lượng Quân đội và Hải quân Viễn chinh Australia tiến vào cảng Rabaul vào ngày 12 tháng 9 năm 1914]] Lực lượng Viễn chinh Australia được tập trung ngoài khơi quần đảo Louisiade vào ngày 9 tháng 9; các con tàu được huy động bao gồm Australia, các tàu tuần dương Sydney và Encounter, các tàu khu trục Parramatta, Warrego và Yarra, các tàu ngầm AE1 và AE2, tàu tuần dương phụ trợ Berrima, tàu tiếp liệu Aorangi, ba tàu tiếp than và một tàu chở dầu. Lực lượng tiến lên phía Bắc, và đến 06 giờ 00 ngày 11 tháng 9, Australia bố trí hai xuồng canh gác nhằm đảm bảo vịnh Karavia cho các tàu vận tải và tàu tiếp liệu của lực lượng viễn chinh. Cuối ngày hôm đó, nó bắt giữ chiếc tàu hơi nước Sumatra của Đức ngoài khơi mũi Tawui. Sau đó, chiếc tàu chiến-tuần dương canh chừng sẵn sàng can thiệp bắn phá hai trạm vô tuyến của đối phương mà lực lượng viễn chinh đang đổ bộ tìm cách chiếm đóng. Thuộc địa của Đức hoàn toàn bị chinh phục, và vào ngày 15 tháng 9, Australia lên đường quay trở về Sydney.
Săn đuổi von Spee
Sự hiện diện của Australia chung quanh các thuộc địa cũ của Đức kết hợp với việc Nhật Bản có khả năng tuyên chiến với Đức đã buộc von Spee phải cho rút các con tàu của mình ra khỏi khu vực. Sau khi xuất hiện ngoài khơi Samoa vào ngày 14 tháng 9 và tấn công Tahiti tám ngày sau đó, von Spee dẫn đầu lực lượng của mình hướng đến Nam Mỹ, để từ đây dự định đi qua Đại Tây Dương. Patey vào ngày 17 tháng 9 được lệnh quay trở lên phía Bắc cùng với Australia và Sydney để bảo vệ cho lực lượng viễn chinh Australia. Vào ngày 1 tháng 10, Australia, Sydney, Montcalm và Encounter từ Rabaul đi lên phía Bắc cố truy tìm các tàu Đức, nhưng đã đổi hướng quay trở lại vào lúc nữa đêm sau khi nhận được thông báo của Bộ Hải quân về cuộc tấn công tại Tahiti. Mặc dù Patey suy đoán rằng lực lượng Đức đang hướng đến Nam Mỹ và muốn Australia đuổi theo, Bộ Hải quân không chắc chắn rằng tin tình báo đó chính xác, nên giao nhiệm vụ cho chiếc tàu chiến-tuần dương tuần tra chung quanh Fiji đề phóng đối phương quay trở lại.
Đúng như Patey dự đoán, von Spee tiếp tục đi về hướng Đông; và chỉ cho đến khi hải đội Đức lần đầu tiên đánh bại Hải quân Hoàng gia Anh trong vòng 100 năm tại trận Coronel, Australia mới được phép săn đuổi chúng. Patey được cử làm tư lệnh một lực lượng đa quốc gia với nhiệm vụ ngăn cản hải đội Đức tiến lên phía Bắc đến vùng biển Canada, hoặc săn đuổi chúng nếu như chúng tìm cách tiến vào Đại Tây Dương qua ngã kênh đào Panama hay vòng quanh mũi Horn. Các con tàu dưới quyền Patey bao gồm Australia, tàu tuần dương hạng nhẹ Anh HMS Newcastle, các tàu tuần dương Nhật Bản Izumo và Asama cùng chiếc thiết giáp hạm cũ Hizen nguyên là chiếc Retvizan. Sau khi không tìm thấy dấu vết lực lượng của von Spee, Bộ Hải quân chỉ thị cho Patey khảo sát dọc theo bờ biển Nam Mỹ từ đảo Perlas xuống đến vịnh Guayaquil. Hải đội của Patey biết được điều này vào ngày 10 tháng 12 trong khi đang ở ngoài khơi vịnh Panama; thủy thủ của Australia thất vọng vì họ không có dịp đối đầu với Scharnhorst và Gneisenau.
Các hoạt động tại Bắc Hải
Do mối đe dọa bị tấn công được giải tỏa sau khi Hải đội Đông Á bị tiêu diệt, Australia sẵn sàng để được bố trí bất kỳ nơi nào khác. Thoạt tiên, chiếc tàu chiến-tuần dương được dự định để phục vụ như là soái hạm của Hải đội Tây Ấn với nhiệm vụ săn đuổi và tiêu diệt mọi con tàu Đức tìm cách vượt qua sự phong tỏa Bắc Hải. Australia được lệnh đi đến Jamaica qua ngã kênh đào Panama, nhưng do tải trọng nặng, nó bị buộc phải đi dọc xuống bờ biển Nam Mỹ và băng qua eo biển Magellan trong các ngày 31 tháng 12 năm 1914 và 1 tháng 1 năm 1915, Australia là tàu chihến duy nhất của Hải quân Hoàng gia Australia phải vượt từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương bằng cách vòng qua Nam Mỹ. Trong chuyến đi, một trong các chân vịt của chiếc tàu chiến bị hư hại, và nó phải cố lết về quần đảo Falkland với một nửa tốc độ. Việc sửa chữa tạm thời được tiến hành, và Australia lại lên đường vào ngày 5 tháng 1. Nó được đặt làm soái hạm của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 thuộc Hạm đội Tàu chiến-Tuần dương, một phần của Hạm đội Grand Anh Quốc, Trong thời gian hoạt động cùng Hải đội Tàu chiến-Tuần dương, các hoạt động của Australia chủ yếu bao gồm các cuộc thực tập huấn luyện (riêng lẻ hoặc cùng các tàu chiến khác), tuần tra tại khu vực Bắc Hải nhằm đối phó với các hoạt động của Đức, và một số nhiệm vụ hộ tống. Các nhiệm vụ này tỏ ra đơn điệu đến mức một thủy thủ đã bị quẫn trí.
Australia đã tham gia cùng Hạm đội Grand trong chuyến xuất quân vào ngày 29 tháng 3 để đối phó lại với một tin tức tình báo cho biết Hạm đội Đức đã rời cảng chuẩn bị cho một chiến dịch lớn. Đến đêm hôm sau, các con tàu Đức rút lui, và Australia quay trở về Rosyth. Vào ngày 11 tháng 4, hạm đội Anh lại được bố trí bởi tin tức tình báo lại cho biết một lực lượng Đức sắp hoạt động. Phía Đức dự định rải mìn tại Swarte Bank, nhưng sau khi một khí cầu trinh sát Zeppelin phát hiện một hải đội tuần dương nhẹ Anh, họ lại chuẩn bị đối phó với cái mà họ cho là một cuộc tấn công của Anh. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 1 năm 1916, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 được bố trí ngoài khơi Skagerrak trong khi Hải đội Tuần dương nhẹ 1 càn quét eo biển trong một nỗ lực bất thành truy tìm một tàu rải mìn. nhỏ|upright|trái|alt=Photograph looking down on a large warship. The ship is travelling at speed, and is about to lead two or three other large vessels under the photographer.|Australia dẫn đầu một hàng tàu bên dưới [[Cầu đường sắt Forth|cầu Forth]] Sáng ngày 21 tháng 4 năm 1916, Australia cùng các tàu chị em với nó lại lên đường hướng đến Skagerrak, lần này là để hỗ trợ cho một nỗ lực ngăn chặn việc vận chuyển quặng từ Thụy Điển về Đức. Kế hoạch càn quét Kattegat bị hủy bỏ khi tin tức cho biết Hạm đội Biển khơi được huy động cho một chiến dịch của riêng họ (sau này được biết là trùng hợp về thời gian với vụ Nổi dậy Phục sinh tại Ireland), và các con tàu Anh được lệnh đi đến một điểm gặp gỡ giữa Bắc Hải, trong khi phần còn lại của Hạm đội Grand hướng về phía Đông Nam của Long Forties. Trưa ngày 22 tháng 4, lực lượng tàu chiến-tuần dương di chuyển tuần tra về phía Tây Bắc Horn Reefs khi sương mù trở nên dày đặc. Các con tàu chạy zig-zag để tránh sự tấn công bằng tàu ngầm đối phương, và phối hợp với hoàn cảnh thời tiết, đã khiến Australia va chạm với tàu chị em New Zealand hai lần trong vòng ba phút. Công việc khảo sát hư hại ban đầu được thực hiện tại một ụ nổi trên sông Tyne, nhưng bản chất của hư hại đã buộc phải chuyển nó đến Devonport, Devon cho công việc sửa chữa thực sự. Trong suốt ngày hôm sau, Jellicoe và Scheer nhận được những tin tức tình báo mâu thuẫn với nhau, vốn đưa đến hậu quả là trên đường đi đến điểm gặp gỡ tại Bắc Hải, Hạm đội Grand chuyển hướng lên phía Bắc do tin tưởng sai lầm là đang tiến vào một bãi mìn trước khi quay lại hướng Nam. Riêng Scheer lại bẻ lái về hướng Đông Nam để săn đuổi cái mà ông tin là một hải đội chiến trận Anh đơn độc được một khí cầu Đức phát hiện, nhưng thực ra chỉ là Lực lượng Harwich gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền Thiếu tướng Hải quân Reginald Tyrwhitt. Nhận ra sai lầm, phía Đức đổi hướng quay trở về cảng nhà. Tiếp xúc duy nhất giữa hai phía là vào lúc chiều tối khi Tyrwhitt nhìn thấy Hạm đội Biển khơi, nhưng không thể đi đến một vị thế tấn công thuận tiện trước khi trời tối, nên đã tách ra khỏi trận chiến. Cả hạm đội Anh lẫn hạm đội Đức đều quay trở về cảng nhà; phía Anh mất hai tàu tuần dương do các cuộc tấn công bằng tàu ngầm, còn phía Đức có một thiết giáp hạm dreadnought bị trúng ngư lôi.
Chiếc tàu chiến-tuần dương tiếp tục các hoạt động thực tập thường lệ và tuần tra tại Bắc Hải trong năm 1917 với ít sự cố. Hoạt động của Australia bị giới hạn trong các chuyến đi huấn luyện giữa Rosyth và Scapa Flow, thỉnh thoảng có các chuyến tuần tra về phía Đông Bắc Anh Quốc truy lùng các tàu cướp tàu buôn Đức. Ngày tháng 5, trong khi chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, một quả đạn pháo 12 inch bị kẹt ở thang nâng trong khi kíp nổ bị móc vào chỗ nhô ra. Sau khi hầm đạn được sơ tán, Thiếu tá Hải quân F. C. Darley leo xuống thang nâng và thành công trong việc tháo kíp nổ. Ngày 26 tháng 6 năm, Vua George V viếng thăm con tàu. Trong giai đoạn được sửa chữa, Australia là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Australia đã phóng một máy bay, khi một chiếc Sopwith Pup cất cánh từ sàn phía sau vào ngày 18 tháng 12. Vào ngày 30 tháng 12, Australia nổ súng vào cái mà nó nghĩ là một tàu ngầm, là lần duy nhất mà nó nổ súng vào đối phương trong suốt thời kỳ được bố trí hoạt động cùng Hải đội 2. Cho dù nhiều người trên Australia đã tình nguyện với hy vọng thoát khỏi công việc vất vả khi tuần tra tại Bắc Hải, chỉ có 11 người bao gồm 10 thủy thủ và một trung úy kỹ sư được chọn cho cuộc đột kích, vốn diễn ra vào ngày 23 tháng 4. Viên trung úy được điều về phòng máy của chiếc tàu phà được trưng dụng Iris II, và đã được trao tặng Huy chương Phục vụ Dũng cảm (DSM) cho nỗ lực của mình. Những người khác được phân về phòng nồi hơi của chiếc Thetis hay trong thành phần đội tấn công dọc theo đê chắn sóng. Tất cả mười thủy thủ đều sống sót, Australia là chiếc duy nhất không chịu thương vong từ vụ đột kích, và ba người trong đó được tặng Huy chương Phục vụ Dũng cảm và ba người khác được biểu dương. Một trong các thủy thủ được đưa vào danh sách đề cử trao tặng Huân chương Chữ thập Victoria, nhưng cuối cùng đã không nhận được phần thưởng này. Từ ngày 8 tháng 3, chiếc tàu chiến-tuần dương bắt đầu thử nghiệm khả năng phóng máy bay từ các bệ đặt trên các tháp pháo 'P' và 'Q'. Hải đội 2 lại lên đường vào ngày 25 tháng 4 hỗ trợ cho các tàu rải mìn, rồi bảo vệ cho một trong các đoàn tàu vận tải Scandinavia vào ngày hôm sau. Australia sau đó hình thành nên một phần của lực lượng canh gác Hạm đội Biển khơi trong giai đoạn cuối năm 1918 và đầu năm 1919, trải qua phần lớn thời gian thả neo tại Scapa Flow hay tiến hành tuần tra tại Bắc Hải. Nhiệm vụ đơn điệu này góp phần làm hạ thấp tinh thần ở một số bộ phận thủy thủ đoàn. Nó đi cùng với Brisbane trong phần đầu của chuyến đi, nhưng chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ sau đó phải cho tách ra để kéo chiếc tàu ngầm J5. Cho dù đã quay trở về nhà, chiếc tàu chiến-tuần dương vẫn còn dưới quyền kiểm soát của Bộ Hải quân Anh cho đến ngày 1 tháng 8 năm 1919.
Australia không được chính thức trao tặng vinh dự chiến trận nào, mặc dù người của nó cũng như trên chiếc kế thừa cho rằng các hoạt động tại Thái Bình Dương, tuần tra Bắc Hải và sự hiện diện của chiếc tàu chiến-tuần dương lúc Hạm đội Biển khơi Đức đầu hàng là những vinh dự chiến trận không chính thức. Sau khi tái tổ chức thủ tục trao tặng vinh dự chiến trận của Hải quân Hoàng gia Australia vào năm 2010, các vinh dự chiến trận "Rabaul 1914" và "Bắc Hải 1915–18" được truy tặng vào ngày 1 tháng 3 năm 2010.
Binh biến
Thủy thủ đoàn trên chiếc Australia thường xuyên chịu đựng việc mất tinh thần kể từ khi chiếc tàu chiến-tuần dương được đưa vào phục vụ, và tỉ lệ thủy thủ của Australia bị phạt kỷ luật trong Thế Chiến I là cao nhất trong Hải quân Australia. Các yếu tố góp phần vào tinh thần yếu kém bao gồm không được tham gia trận Jutland, tỉ lệ bệnh tật cao, cơ hội nghỉ phép bị giới hạn và lương bổng chậm trễ. Tuy nhiên nó chỉ ở lại đúng ba ngày, khi Australia dự định khởi hành vào sáng sớm ngày 1 tháng 6 đi Melbourne. Cumberlege phát biểu với nhóm bằng một giọng khắt khe, mệnh lệnh, nhắc lại sự khẳng định trước đó là nghĩa vụ của Australia không cho phép trì hoãn, rồi ra lệnh cho thủy thủ giải tán. Sau khi tập trung trên sàn tàu, một số thủy thủ che mặt bằng khăn đen, khuyến khích hay dọa dẫm các thợ đốt lò rời vị trí của họ. Năm người khác bị bắt giữ, trong đó có cả một người đang được đề nghị khen thưởng Huân chương Chữ thập Victoria sau vụ đột kích Zeebrugge, và bị kỷ luật do tiến hành nổi loạn.
Tiếp theo sau phiên tòa, một cuộc tranh luận nổ ra trong công chúng, báo giới cũng như trong nội bộ chính quyền về vụ xét xử; trong khi đa số đồng ý rằng vụ binh biến đã xảy ra, có những quan điểm khác nhau về tính nhân hậu hay nghiêm khắc của hình phạt được đưa ra. Tình cảm của công luận đứng về phía các thủy thủ, và nhiều nhà chính trị đã áp lực với chính phủ và Bộ Hải quân để tha thứ cho họ. Bộ Hải quân cho rằng hình phạt là công bằng, nhưng đến ngày 10 tháng 9 đã thông báo giảm hình phạt còn một nửa do tuổi các thủy thủ còn trẻ. Tuy nhiên, chính phủ đã khiến Ủy ban Hải quân Thịnh vượng chung Australia tức giận khi liên hệ với Bộ Hải quân mà không tham khảo trước với Ủy ban. Hai vị sĩ quan được thuyết phục để rút lại việc từ chức sau khi được đảm bảo rằng Ủy ban sẽ được tham khảo trước khi chính phủ liên lạc với Bộ Hải quân về mọi vấn đề liên qan trong tương lai, và một thông báo gửi đến mọi tàu chiến giải thích rằng việc kết án là đúng, nhưng hòa bình được lập lại là lý do đưa ra để dung thứ cho trường hợp đặc biệt này.
Sau chiến tranh
Vào tháng 5 năm 1920, Australia tham gia các lễ hội và hoạt động hải quân gắn liền với chuyến viếng thăm của Hoàng tử xứ Wales. Từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1920, một thủy phi cơ Avro 504 của Quân đoàn Không quân Australia được đưa lên tàu như một phần của một loạt các thử nghiệm tích lũy kinh nghiệm để thành lập chi nhánh không lực hải quân. Chiếc máy bay được giữ trên sàn phía sau cạnh tháp pháo 'Q', được bố trí và thu hồi bằng cần cẩu. Việc cắt giảm ngân sách sau chiến tranh đã buộc Hải quân Australia phải rút chiếc tàu chiến-tuần dương ra khỏi hoạt động thường trực, vì một phần khá lớn nguồn lực và nhân lực mà Australia chiếm hữu có thể sử dụng tốt hơn ở nơi khác. Vào tháng 8 năm 1920, Ủy ban Hải quân đánh giá chiếc tàu chiến-tuần dương chỉ đứng thứ 11 trong số 12 ưu tiên của Hải quân.
Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 là một thỏa thuận giới hạn chạy đua vũ trang hải quân và giải giới giữa năm cường quốc hải quân vào lúc đó: Anh Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ý và Pháp. Một trong những khía cạnh chính của Hiệp ước là giới hạn về số lượng và kích cỡ tàu chiến chủ lực mà mỗi nước sở hữu; vì Hiệp ước xem Hải quân Hoàng gia Australia là một phần của Hải quân Hoàng gia Anh, Australia là một trong các tàu chiến-tuần dương được đề nghị loại bỏ nhằm đáp ứng giới hạn dành cho Anh. Đây là lần duy nhất mà Australia chịu ảnh hưởng bởi một hiệp ước giải trừ quân bị cho đến Hiệp ước Ottawa năm 1997 cấm sử dụng mìn chống cá nhân. nhỏ|trái|alt=A World War I-era warship tied up to a dock. The ship is in poor condition, and has streaks of rust on her hull.|Australia neo đậu tại [[đảo Garden, New South Wales|đảo Garden năm 1924]] Một số thiết bị đã được tháo dỡ khi Australia ngừng hoạt động để sử dụng trên các con tàu khác, nhưng sau quyết định của Nội các Australia vào tháng 11 năm 1923 xác nhận việc đánh đắm con tàu, người của Hải quân cùng các hãng thầu tư nhân bắt đầu tháo dỡ đường ống và các thiết bị nhỏ khác. Từ tháng 11 năm 1923 đến tháng 1 năm 1924, số thiết bị trị giá 68.000 Bảng Anh được thu hồi; hơn một nửa được trao tặng cho các cơ sở giáo dục (một số được sử dụng cho đến những năm 1970), trong khi số còn lại được dành cho việc sử dụng trên các tàu chiến trong tương lai hoặc bán ra như là vật kỷ niệm.
Vào ngày đánh đắm, Australia được kéo đến một điểm cách về phía Đông Bắc Sydney Heads. Theo những điều khoản của Hiệp ước Washington, chiếc tàu chiến-tuần dương cần được đánh đắm ở vùng biển đủ sâu khiến nó không thể làm nổi trở lại trong một tương lai gần. Nhiều người tình nguyện tham gia vào đội đánh đắm, nhưng chỉ những người từng phục vụ với nó được chọn. Lúc 14 giờ 30 phút, đội đánh đắm hẹn giờ kíp nổ, mở mọi van lấy nước rồi rời tàu. Các khối thuốc nổ làm thủng một lỗ trên lườn tàu vài phút sau đó, nhưng phải mất 20 phút để nước ngập đến các lỗ cắt phía trên của mạn tàu. Quan điểm đối nghịch cho rằng khi những cảm xúc ban đầu và tính biểu trưng đã mất, con tàu đã lạc hậu trong khi lại tiêu tốn nhiều nguồn tài lực. Đạn pháo và nòng pháo thay thế cho dàn pháo chính đã không còn được sản xuất. Sau việc sử dụng thành công thiết bị lặn điều khiển từ xa (ROV: remote operated vehicle) để phát hiện một máy bay trực thăng Black Hawk bị rơi trong phản ứng của Australia đối với cuộc Đảo chính Fiji 2006, New South Wales Heritage Office đã yêu cầu sử dụng ROV để xác định vị trí đắm của chiếc tàu chiến-tuần dương và khảo sát xác tàu. Địa điểm phát hiện là chính xác, xác tàu được tìm thấy nằm lật úp và bị rong rêu che phủ, ở độ sâu bên dưới mực nước biển. Không tìm thấy các nòng pháo, nhưng cấu trúc thượng tầng và các cột ăn-ten đều hiện diện xác định lai lịch của con tàu.