✨USS Indianapolis (CA-35)
USS Indianapolis (CA-35) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Portland của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này theo tên thành phố Indianapolis thuộc tiểu bang Indiana. Nó có một vị trí nổi bật trong lịch sử do những tình huống đưa đến việc bị đánh chìm, dẫn đến một trong những tổn thất về sinh mạng ngoài biển lớn nhất trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 1945, không lâu sau khi chuyển giao những bộ phận quan trọng của quả bom nguyên tử đầu tiên sử dụng trong chiến đấu đến căn cứ không quân tại Tinian, chiếc tàu tuần dương trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Nhật I-58, và bị chìm chỉ sau 12 phút. Trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn hiện diện trên tàu, có khoảng 300 người đã chìm theo nó. Số 800 người còn lại phải đối mặt với đói khát và sự tấn công của cá mập, khi họ trôi nổi chờ đợi được giúp đỡ với rất ít bè cứu sinh và hầu như không có thực phẩm và nước uống. Hải quân Mỹ chỉ biết đến vụ chìm tàu sau khi những người sống sót được một đội bay PV-1 Ventura tuần tra thường xuyên phát hiện bốn ngày sau đó. Chỉ có 316 thủy thủ sống sót. Indianapolis là một trong những tàu chiến Mỹ cuối cùng bị đánh chìm bởi hoạt động thù địch của đối phương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; sau đó chỉ có chiếc tàu ngầm USS Bullhead bị máy bay Nhật tấn công bằng mìn sâu và có lẽ đã chìm vào ngày 6 tháng 8 năm 1945.
Thiết kế và chế tạo
Indianapolis được đặt lườn vào ngày 31 tháng 3 năm 1930 bởi hãng New York Shipbuilding tại Camden thuộc New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 11 năm 1931, được đỡ đầu bởi cô Lucy Taggart, con gái nguyên Thương Nghị sĩ Thomas Taggart từng là Thị trưởng thành phố Indianapolis; và được cho nhập biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 15 tháng 11 năm 1932, dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân John M. Smeallie.
Lịch sử hoạt động
Giữa hai cuộc thế chiến
Bên trên chiếc Indianapolis trong chuyến Duyệt binh Hạm đội của Tổng thống ngoài khơi [[thành phố New York ngày 31 tháng 5 năm 1934. Nhìn từ bên trên cấu trúc thượng tầng ra phía đuôi tàu trong khi tàu khu trục tháp tùng, một thủy phi cơ trinh sát Vought 03U Corsair trên máy phóng bên mạn phải của Indianapolis, và cờ hiệu của Tổng thống treo trên cột cờ chính.]] Sau chuyến đi chạy thử máy tại Đại Tây Dương và vùng vịnh Guantánamo cho đến ngày 23 tháng 2 năm 1932, Indianapolis tiến hành huấn luyện tại khu vực kênh đào Panama và tại vùng biển Thái Bình Dương ngoài khơi Chile. Sau một đợt đại tu tại Xưởng Hải quân Philadelphia, chiếc tàu tuần dương hạng nặng đi đến Maine để đón Tổng thống Franklin Roosevelt tại đảo Campobello thuộc tỉnh New Brunswick của Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1933. Lên đường cùng ngày hôm đó, Indianapolis đi đến Annapolis, Maryland hai ngày sau nơi nó tiếp đãi sáu thành viên nội các. Sau khi Tổng thống rời tàu, nó rời Annapolis ngày 4 tháng 7 quay trở lại Xưởng Hải quân Philadelphia. Bản thân Indianapolis bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi. Cuộc không chiến trong ngày này đã được hạm đội Mỹ biết đến dưới tên gọi "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại". Khi sự kháng cự bằng không quân của Nhật bị quét sạch, máy bay từ tàu sân bay Mỹ đã truy đuổi và đánh chìm tàu sân bay Hiyō, hai tàu khu trục và một tàu chở dầu cũng như gây hư hại nặng cho nhiều chiếc khác. Hai tàu sân bay khác Taihō và Shōkaku trước đó đã bị tàu ngầm đánh chìm. Tuy nhiên, các cấp chỉ huy Hải quân đã không nhận được tin tức gì về việc nó bị đánh chìm, do việc nó không tới được điểm đến vào ngày dự định không được ghi nhận và báo cáo. Những người còn sống sót chỉ được phát hiện sau đó bốn ngày rưỡi, lúc 10 giờ 25 phút ngày 2 tháng 8 bởi phi công Đại úy Wilbur (Chuck) Gwinn và phi công phụ Đại úy Warren Colwell trong một chuyến bay tuần tra thường lệ. Chỉ có 321 người được vớt lên khỏi nước còn sống, và sau cùng chỉ còn 316 người sống sót. Họ bị thiếu hụt nước và thực phẩm, một số tìm được ít khẩu phần và đồ hộp trong các mảnh vụn trôi nổi, trong khi phải chịu đựng tình trạng giảm nhiệt, mất nước, ngộ độc muối, phơi nắng, đói và bị cá mập tấn công, trong khi một số bị những người khác tấn công trong những tình trạng mất trí, mê sảng và ảo giác khác nhau. Kênh truyền hình Discovery Channel khẳng định việc chiếc Indianapolis bị đắm đã đưa đến một trong những cuộc tấn công của cá mập nhắm vào con người lớn nhất trong lịch sử, do loài cá mập mũi trắng đại dương thực hiện. Chương trình này cũng cho rằng hầu hết các trường hợp thiệt mạng của Indianapolis đều do phơi nắng, ngộ độc muối và khát nước, và xác những người chết bị cá mập lôi đi.
Gwinn lập tức cho thả một bè cứu sinh và một máy phát sóng vô tuyến. Mọi đơn vị không lực và hải quân có khả năng hoạt động ứng cứu đều được cho tách ra đi đến hiện trường ngay lập tức. Một thủy phi cơ PBY Catalina do Đại úy R. Adrian Marks được gửi đến để trợ giúp và báo cáo.
Indianapolis đã gửi tín hiệu cầu cứu trước khi chìm, và ba trạm đã nhận được tín hiệu này, nhưng đã không thực hiện bất kỳ hành động nào. Một viên chỉ huy uống rượu, người khác ra lệnh cho thuộc cấp không được quấy rầy và một người thứ ba cho đó là trò đùa của quân Nhật. Trong một thời gian dài, Hải quân đã phủ nhận việc tín hiệu cầu cứu đã được gửi đi. Việc thu nhận được tín hiệu cầu cứu chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi công bố các tài liệu hết hạn bảo mật.
Diễn biến tiếp theo
Đại tá Hải quân Charles Butler McVay III, người chỉ huy Indianapolis từ tháng 11 năm 1944, đã sống sót khi bị chìm tàu và nằm trong số những người được cứu sống những ngày sau đó. Vào tháng 11 năm 1945, ông bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự và bị kết tội "đặt con tàu của mình vào tình trạng nguy hiểm vì đã không chạy zigzag." Nhiều điểm được đưa ra tại tòa án đầy mâu thuẫn và tranh cãi. Có chứng cứ cho thấy Hải quân đã đặt con tàu vào tình thế nguy hiểm, mệnh lệnh dành cho McVay "chạy zigzag theo ý mình, nếu như điều kiện cho phép." Hơn nữa, Mochitsura Hashimoto, chỉ huy của I-58, chứng nhận rằng chạy zigzag cũng không tạo ra sự khác biệt nào.
Thủy sư Đô đốc Chester Nimitz đã ân xá bản án của McVay và đưa ông trở lại phục vụ thường trực trong Hải quân. McVay nghỉ hưu vào năm 1949. Trong khi nhiều người còn sống sót trên chiếc Indianapolis cho rằng McVay không phải chịu trách nhiệm về việc chiếc tàu chiến bị đánh chìm, gia đình một số người tử nạn đã không tha thứ. Cảm giác tội lỗi đè nặng lên vai ông cho đến khi ông tự tử vào năm 1968, sử dụng khẩu súng lục Hải quân được cấp, trên tay còn cầm một người thủy thủ đồ chơi.
Vào tháng 10 năm 2000, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết xác định những ghi chép về Đại tá Hải quân McVay khẳng định "ông được miễn mọi trách nhiệm trong việc mất chiếc Indianapolis." Tổng thống Bill Clinton đã ký vào nghị quyết này. Nghị quyết ghi nhận rằng mặc dù hàng trăm tàu chiến Hải quân Mỹ đã bị mất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, McVay là hạm trưởng duy nhất bị xét xử tại tòa án quân sự chỉ vì tàu của mình bị đánh chìm.
Phần thưởng
Indianapolis được tặng thưởng 10 Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. được khánh thành vào ngày 2 tháng 8 năm 1995. Nó tọa lạc ở Canal Walk thuộc Indianapolis. Hình ảnh chiếc tàu tuần dương hạng nặng được tái tạo bằng đá vôi và đá granite, đặt bên cạnh con kênh tại trung tâm thành phố. Danh sách thành viên thủy thủ đoàn được khắc trên đài tưởng niệm, với chú thích đặc biệt cho những người đã thiệt mạng.
Một số hiện vật có liên quan đến Indianapolis được lưu giữ tại Bảo tàng Tiểu bang Indiana; chiếc chuông của nó hiện đang ở tại Bảo tàng vũ khí hải quân Heslar. Trung tâm huấn luyện bơi lội của Bộ chỉ huy Huấn luyện Tuyển mộ Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo USS Indianapolis. Bảo tàng USS Indianapolis được khai trương ngày 7 tháng 7 năm 2007 tại Indiana World War Memorial Plaza.
Văn hóa đại chúng
Trong bộ phim Hàm cá mập (Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg năm 1975, nhân vật Sam Quint (do Robert Shaw đóng) tự nhận là một người sống sót từ chiếc USS Indianapolis, và việc chiến đấu để sinh tồn chống lại sự tấn công của cá mập trong khi chờ đợi được giải cứu là một phần của động cơ thúc đẩy ông theo đuổi cuộc đời của một người săn cá mập.