✨I-22 (tàu ngầm Nhật) (1938)

I-22 (tàu ngầm Nhật) (1938)

I-22 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Nhật mang cái tên này, sau khi chiếc I-22 thứ nhất được đổi tên thành I-122 vào năm 1938. Nhập biên chế năm 1941, nó đã phóng tàu ngầm bỏ túi tham gia Tấn công Trân Châu Cảng và cuộc tấn công cảng Sydney, cũng như hỗ trợ cho trận chiến biển Coral và phục vụ cho chiến dịch Guadalcanal. I-22 bị một thủy phi cơ PBY Catalina đánh chìm tại đảo Malaita thuộc quần đảo Solomon vào ngày 6 tháng 10, 1942.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu đến .

Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất . Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa và khi lặn dưới nước, tầm xa hoạt động của Type C là ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi , tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo , cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).

Chế tạo

Được đặt hàng trong Chương trình Maru 3 năm 1937, I-22 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 47 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 25 tháng 11, 1937. Đang khi được chế tạo, nó được đổi tên thành I-22 vào ngày 1 tháng 6, 1938, Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 12, 1938 I-22 đi đến Truk an toàn trong ngày hôm đó.

Tấn công cảng Sydney

Tại Truk, I-22 nhận lên tàu một tàu ngầm bỏ túi Type A, rồi cùng các tàu ngầm I-24I-27 khởi hành vào ngày 18 tháng 5 để hướng sang Sydney, Australia, thực hiện cuộc tấn công bằng tàu ngầm bỏ túi vào tàu bè trong cảng Sydney. Trên đường đi, họ nhận được thông tin trinh sát từ tàu ngầm I-29, vốn đã tung ra một thủy phi cơ trinh sát cảng Sydney vào ngày 23 tháng 5; và từ chiếc I-21, khi chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 của nó tiến hành thêm một phi vụ trinh sát vào sáng sớm ngày 29 tháng 5. Chiếc Yokosuka E14Y1 đã nhìn thấy tàu tuần dương hạng nặng trong cảng Sydney, nhưng nhận định nhầm mục tiêu là một thiết giáp hạm. Vào ngày hôm đó, tư lệnh Đơn vị Tiền phương phía Đông ra lệnh cho I-22, I-24I-27 tiến hành cuộc tấn công bằng tàu ngầm bỏ túi.

Vào ngày 30 tháng 5, I-22, I-24I-27 đi đến ngoài khơi Sydney. Trong khoảng thời gian từ 17 giờ 21 phút đến 17 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5, họ lần lượt phóng các tàu ngầm bỏ túi cho cuộc Tấn công cảng Sydney. Tàu ngầm bỏ túi của I-22, chiếc M21, xâm nhập được vào bên trong cảng, nơi nó bị tàu tuần tra tìm cách húc rồi thả mìn sâu tấn công. M21 sống sót qua đợt tấn công của Yandra, nhưng tiếp tục bị tàu tuần tra tấn công ngoài khơi vịnh Taylors và bị đánh hỏng. Hai thành viên tổ lái của M21 đã tự sát; và lực lượng Đồng Minh sau đó tìm thấy M21 dưới đáy vịnh với động cơ vẫn còn hoạt động. Các tàu ngầm bỏ túi của I-24I-27 cũng bị mất.

Chuyến tuần tra thứ ba

I-22, I-24I-27 tiếp tục lãng vảng ngoài khơi Sydney cho đến ngày 3 tháng 6 với hy vọng có thể thu hồi các tàu ngầm bỏ túi, nhưng không chiếc nào quay về; sau đó họ rời khỏi khu vực và tách ra để hoạt động tuần tra độc lập. I-22 được giao nhiêm vụ trinh sát Wellington và Auckland, New Zealand, cùng Suva thuộc quần đảo Fiji. Nó tiến hành trinh sát Wellington qua kính tiềm vọng trong các ngày 8 và 9 tháng 6, rồi phóng ngư lôi tấn công một tàu hơi nước nhỏ ngoài khơi đảo Portland lúc 14 giờ 18 ngày 10 tháng 6; tuy nhiên quả ngư lôi đi bên dưới con tàu mà không kích nổ và mục tiêu chạy thoát. I-22 tiếp tục trinh sát vịnh Hauraki và Auckland vào chiều tối hôm đó; trinh sát Suva trong các ngày 17 và 18 tháng 6; và trinh sát Auckland một lần nữa vào ngày 19 tháng 6. Nó cùng I-21, I-24, I-27I-29 về đến Kwajalein vào ngày 25 tháng 6. I-22 rời Kwajalein vào ngày 5 tháng 7 để quay trở về Nhật Bản, về đến Yokosuka vào ngày 11 tháng 7.

Chuyến tuần tra thứ tư

Trong khi I-22 đang được đại tu tại Yokosuka, Chiến dịch Guadalcanal bắt đầu vào ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. I-22 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 11 tháng 9, và hướng sang khu vực quần đảo Solomon cho chuyến tuần tra thứ tư. Trên đường đi vào ngày 15 tháng 9, nó nhận được lệnh tham gia một tuyến tuần tra về phía Tây Nam đảo Rennell. Chiếc tàu ngầm báo cáo phát hiện một đoàn tàu vận tải Đồng Minh ở vị trí về phía Đông Nam Malaita vào ngày 1 tháng 10, rồi báo cáo tọa độ của về phía Đông Nam Malaita vào ngày 4 tháng 10. Sau đó con tàu hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.

Bị mất

Lúc 21 giờ 50 ngày 6 tháng 10, một thủy phi cơ PBY Catalina xuất phát từ sân bay Henderson, Guadalcanal đã phát hiện I-22 đang lặn xuống trong biển Coral tại tọa độ . Chiếc PBY Catalina thả bốn quả mìn sâu tấn công, nhìn thấy bọt nước và dầu diesel trồi lên mặt nước, xác nhận mục tiêu đã bị đánh chìm.

Vào ngày 12 tháng 11, 1942, Hải quân Nhật Bản công bố I-22 có thể đã bị mất tại khu vực biển Coral với tổn thất toàn bộ 100 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 15 tháng 12, 1942.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-22_**: * _I-22_ (1926) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-122_
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-16_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**Tàu ngầm lớp I-201** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Loại tàu ngầm được thiết kế nâng cao để có thể di
là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Asahi_** (tiếng Nhật: 朝日) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được chế tạo cùng lúc với lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20,
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
**_Murakumo_** (tiếng Nhật: 叢雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**USS _Hammann_ (DD-412)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Gilmer_ (DD-233/APD-11)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Gridley_ (DD-380)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu cho lớp _Gridley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**ARA** **_General Belgrano_ (C-4)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Argentina được đưa vào sử dụng từ năm 1951 đến năm 1982. Ban đầu được Hoa Kỳ ủy nhiệm với tên
**USS _Fanning_ (DD-385)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Russell_ (DD-414)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
Chiếc **Douglas B-18 Bolo** là một máy bay ném bom của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Canada vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Chiếc **Bolo**
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Bà Rịa – Vũng Tàu** (viết tắt **BRVT**) là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15
**USS _Missouri_ (BB-63)** (tên lóng "**Mighty Mo**" hay "**Big Mo**") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại