Sa mạc Taklamakan trong lòng chảo Tarim.
Lòng chảo Tarim, (tiếng Trung: 塔里木盆地, Hán-Việt: Tháp Lý Mộc bồn địa) là một trong số các lòng chảo khép kín lớn nhất trên thế giới có diện tích bề mặt khoảng 400.000 km², nằm trong Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền viễn tây Trung Quốc. Phần lớn của lòng chảo là sa mạc Taklamakan. Khu vực này có dân cư rất thưa thớt, chủ yếu là người Uyghur và các dân tộc Trung Á khác, cũng như là người Hán, phần nhiều trong số họ là những người nhập cư gần đây.
Con đường tơ lụa trong lòng chảo Tarim nằm giữa Khách Thập (Kashgar) () và Ngọc Môn (Yumen) () và được chia thành hai lộ trình, men theo các rìa phía bắc và phía nam của sa mạc Taklamakan. Các thành thị dọc theo mỗi nhánh, tính từ tây sang đông là:
- Lộ trình phía bắc:
A Khắc Tô (Aksu) (41°10′vĩ bắc, 80°15′kinh đông)
Khố Xa (Kucha) (41°39′vĩ bắc, 82°54′kinh đông)
Khố Nhĩ Lặc (Korla) (41°39′vĩ bắc, 86°08′kinh đông)
Thổ Lỗ Phan (Turfan) (42°59′vĩ bắc, 89°11′kinh đông)
** Lâu Lan (Loulan) (40°55′vĩ bắc, 89°9′kinh đông)
- Lộ trình phía nam:
Toa Xa (Yarkand) (37°52′vĩ bắc, 77°24′kinh đông)
Bì Sơn (Pishan) (37°37′vĩ bắc, 78°18′kinh đông)
** Hòa Điền (Khotan) (37°6′vĩ bắc, 80°1′kinh đông)
Ngoài ra, trước đây còn:
- "Lộ trình trung tâm": Đã bị bỏ hoang từ thế kỷ 6)
Trước đây thì các thứ tiếng trong ngôn ngữ Tochari được người dân sử dụng trong khu vực lòng chảo Tarim. Đây là các thứ tiếng xa nhất về phía đông của ngữ hệ Ấn-Âu. Tên gọi trong tiếng Trung "Nguyệt Chi" (月氏; Wade-Giles: Yüeh-Chih) đã dùng để chỉ những người Trung Á cổ đại sống trong khu vực Cam Túc ngày nay, những người này đã bị người Hung Nô xua đuổi, sau này họ di cư về phía lòng chảo Tarim và về phía nam để lập ra Vương triều Quý Sương tại miền bắc Ấn Độ.
Người Hán dưới sự chỉ huy của một viên tướng giỏi là Ban Siêu (32-102) đã giành được sự kiểm soát khu vực lòng chảo Tarim từ tay người Hung Nô vào cuối thế kỷ 1.
Vương quốc Quý Sương hùng mạnh đã mở rộng trở lại vào lòng chảo Tarim trong giai đoạn từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 2, khi họ lập ra một vương quốc tại Khách Thập. Họ đã tranh giành quyền kiểm soát khu vực này với các bộ lạc du cư và các lực lượng quân sự của người Hán. Họ là những người đưa ra chữ viết Brahmi, tiếng Prakrit của người Ấn Độ để quản lý cũng như là những người đóng vai trò lớn trong việc truyền Phật giáo trên Con đường tơ lụa chuyển giao Phật giáo tới Đông Á.
Hồ Lop Nur (La Bố Bạc) là một khu vực đầm lầy lõm xuống chứa nước mặn ở phần rìa phía đông của lòng chảo Tarim, cũng là khu vực thử nghiệm hạt nhân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sông Tarim chảy vào khu vực Lop Nur.
Ảnh chụp lòng chảo Tarim từ vệ tinh của NASA
Lòng chảo Tarim được cho là có chứa các bể dầu mỏ và khí tự nhiên lớn.
Một điều đáng chú ý là tuyết trên đỉnh K2 (trong tiếng Trung gọi là 乔戈里峰, Hán-Việt: Kiều Qua Lý Phong), đỉnh cao thứ hai trên thế giới sau Everest, chảy xuống thành các dòng sông băng, chúng di chuyển xuống các thung lũng thấp và tan chảy để tạo thành nước sông, con sông này uốn khúc trong các dãy núi để cuối cùng đổ vào lòng chảo Tarim. Ở đoạn giữa sa mạc, những nguồn nước này tạo nên các ốc đảo và được bơm lên để phục vụ nông nghiệp và con người, cuối cùng sau khi đã chảy trên một khoảng cách lớn thì chúng hóa thành các hồ và đầm lầy nước mặn và bốc hơi.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Sa mạc Taklamakan trong **lòng chảo Tarim**. **Lòng chảo Tarim**, (tiếng Trung: 塔里木盆地, Hán-Việt: Tháp Lý Mộc bồn địa) là một trong số các lòng chảo khép kín lớn nhất trên thế giới có diện
**Sông Tarim** (tiếng Trung: 塔里木河; bính âm Tǎlǐmù Hé; Hán-Việt: Tháp Lý Mộc Hà, tiếng Duy Ngô Nhĩ: تارىم دەرياسى) là con sông chính tại Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Hành lang Hà Tây** hay **hành lang Cam Túc** (, âm Hán Việt:_Hà Tây tẩu lang_) đề cập tới tuyến đường lịch sử tại tỉnh Cam Túc ở Trung Quốc. Hành lang là một phần
nhỏ|Phần phía đông của Altun Shan nằm ở phía dưới của bản đồ **Altyn-Tagh**, **Astyn-Tagh**, **dãy núi Altun**, **Altun Shan** hay **A Nhĩ Kim Sơn** (; Altyn Tagh có nghĩa là núi Vàng trong ngôn
Ngữ tộc **Tochari**, còn viết là **Tokhari**, là một nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu đã biến mất. Nó được biết đến nhờ những bản viết tay có niên đại từ thế kỷ VI-IX, tìm thấy trong
**Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc** (chữ Hán: 準噶爾汗國) hay **Hãn quốc Zunghar**, là một đế quốc du mục trên thảo nguyên châu Á. Hãn quốc nằm trên khu vực được gọi là Dzungaria và trải
**Đông Turkestan** (tiếng Uyghur: شەرقىي تۈركىستان, Hán-Việt: _Đông Đột Quyết Tư Thản_ hay _Đông Thổ Nhĩ Kỳ Tư Thản_ chữ Uyghur Latin: Shərqiy Türkistan, chữ Uyghur Cyrill: Шәрқий Түркистан), hay **Đông Turkistan, Uyghurstan, Uyghuristan** (,
**Chiến tranh Đường – Kucha** là một chiến dịch quân sự dưới sự chỉ huy của tướng nhà Đường Ashina She'er chống lại vương quốc nhỏ Kucha ở lòng chảo Tarim thuộc Tây Vực, gần
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
Lòng chảo Tarim vào thế kỷ 3, Quy Từ được biểu thị với tên Kuqa (màu cam) Tượng bán thân của [[Bồ Tát đến từ Quy Từ, thế kỷ 6-7. Bảo tàng Guimet.]] **Khố Xa**
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
nhỏ|Cung hoàng đạo bằng tiếng Khotan BLI6 OR11252 1R2 1 nhỏ|Những câu thơ tiếng Khotan BLE4 IOLKHOT50 4R1 1 nhỏ|Sách của Zambasta BLX3542 OR9614 5R1 1 **Tiếng Saka** là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
Cảnh quan sa mạc Taklamakan Sa mạc Taklamakan tại [[lòng chảo Tarim.]] nhỏ|phải|Một [[quạt bồi tích khổng lồ giữa các dãy núi Côn Lôn và Altun-Tagh tạo thành ranh giới phía nam của sa mạc
**Người Tochari** hay **người Tokhari** là một dân tộc Ấn-Âu từng cư ngụ trong những thành bang ốc đảo cạnh rìa bắc lòng chảo Tarim (nơi ngày nay thuộc Tân Cương, Trung Quốc) vào thời
Lòng chảo Tarim vào thế kỷ 3, Thiện Thiện được biểu thị với tên "Shanshan" nhỏ|mảnh lụa [[Lâu Lan]] **Thiện Thiện** (; ) là một vương quốc từng tồn tại khoảng từ năm 200 TCN-1000
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Yên Kì** (; Wade-Giles _Yen-ch’i_; tiếng Phạn **अग्निदेस Agnideśa**), hay **Karasahr** (cũng viết là **Karashahr**, nghĩa là 'thành phố đen' trong tiếng Uyghur), trước đây còn gọi là A Kì Ni (阿耆尼) hay Ô Di
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Tiếng Bactria** (Αριαο, "ariao", , "người Iran") là ngôn ngữ bị thất truyền thuộc nhóm ngôn ngữ Đông Iran trước đây được sử dụng tại Bactria, một khu vực thuộc Trung Á (Afghanistan ngày nay)
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
: nhỏ|phải|Gà mái nhỏ|Gà con nhỏ|Gà trống **Gà** (danh pháp hai phần: _Gallus domesticus_) là một phân loài chim đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Một số ý kiến cho
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
**Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009** là một loạt các cuộc bạo động kéo dài nhiều ngày, bắt đầu nổ ra vào ngày 5 tháng 7 năm 2009 tại Ürümqi, thủ phủ của
**Mặc Đốn thiền vu** (, một số tài liệu Việt ngữ ghi là **Mạo Đốn**) sinh khoảng năm 234 TCN là vị thiền vu sáng lập nên Đế quốc Hung Nô sau khi sát hại
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Gia Luật Đại Thạch** (耶律大石 Yēlǜ Dàshi) hay _Gia Luật Đạt Thực_ (耶律達實 Yēlǜ Dáshí) là người sáng lập nên vương triều Tây Liêu. Trong các tài liệu Hồi giáo, ông được biết đến với
nhỏ|Ghi chép về các họ Thư Thư Giác La trong "Thông phổ" **Thư Thư Giác La thị** ( hay , ) là một dòng họ của người Mãn Châu. ## Khái quát Theo Thanh Triều
**Yarkand** (âm Hán Việt: Sa Xa, chữ Hán giản thể: 莎车县) là một huyện thuộc địa khu Kashgar, Tân Cương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 8969 ki-lô-mét vuông, dân
**Dãy núi Côn Lôn** hay **Côn Lôn sơn** (tiếng Trung phồn thể: 崑崙山, giản thể: 昆仑山, bính âm: Kūnlún Shān) là một trong những dãy núi dài nhất tại châu Á, nó trải dài trên
**K2** (còn được gọi là đỉnh **Godwin-Austen**, **Lambha Pahar**, **Chogori**, **Kechu** hay **Dapsang**), cao 8,611 m (28,251 ft) là đỉnh núi cao thứ nhì trên mặt đất, nằm tại giáp ranh biên giới giữa huyện Taxkorgan, địa
**Vu Điền** (chữ Hán: 于闐王國) là một vương quốc Phật giáo ở Trung Á (Trung Quốc gọi là Tây Vực) nằm trên nhánh Con đường tơ lụa chạy dọc theo rìa phía nam của sa
**A Cổ Bách** hay **A Cổ Bá** (, , , ياقۇب بەگ بەدۆلەت خان, ; 1820 - 1877) là một nhà thám hiểm, thủ lĩnh quân sự người Tajik và là người đứng đầu nhà
**Lâu Lan** (; ) là một quốc gia cổ, tồn tại từ thế kỷ II TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan quốc nằm trên
Hỏa Diệm Sơn **Hỏa Diễm Sơn** hay **Hỏa Diệm Sơn** (), các thư tịch cổ cũng viết là _Xích Thạch Sơn_ (赤石山) là một vùng đồi sa thạch màu đỏ cằn cỗi và bị xói
**Cao Xương** (), cũng gọi là **Qara-hoja** hay **Kara-Khoja** (قاراھوجا trong tiếng Duy Ngô Nhĩ), là khu vực từng tồn tại một thành phố ốc đảo được xây dựng tại rìa phía bắc của sa
**Sông Khai Đô** (), cũng được biết tới với tên thời cổ là sông Lưu Sa () là một sông tại Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương tại Trung Quốc và là một
**Hồ Bosten** (, âm Hán Việt: _Bác Tư Đằng hồ_) là một hồ nước ngọt nằm cách về phía đông bắc Korla, Tân Cương, Trung Quốc, thuộc địa phận điạChâu tự trị dân tộc Mông
**Galdan** (, chữ Hán: 噶爾丹, Hán Việt: **Cát Nhĩ Đan** hay cũng phiên thành **Cát Lặc Đan** (噶勒丹) 1644 - 1697), là một Đại hãn người Mông Cổ nhánh Oirat của Hãn quốc Chuẩn Cát
**Bảng chữ cái Duy Ngô Nhĩ cổ** là bộ chữ dùng để viết tiếng Duy Ngô Nhĩ cổ, một biến thể của tiếng Turk cổ được nói ở Turpan (Turfan) và Cam Túc, là tổ
**_Mục thiên tử truyện_** (chữ Hán: 穆天子傳) còn gọi là **_Chu vương du hành_** (周王遊行), không rõ tác giả, đoán rằng sách được hoàn thành vào thời Chiến Quốc, ghi chép về chuyến du hành
**Tashkurgan** (tiếng Uyghur: تاشقورغان بازىرى, **Ташқурган**; tiếng Sarikoli: [tɔʃqyrʁɔn buzur]; tiếng Trung Quốc: 塔什库尔干镇; bính âm Hán ngữ: Tǎshíkùěrgān zhèn) là tên của một thị trấn nằm ở khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc.
nhỏ|Tầm nhìn của Muztagh Ata khi nhìn từ xa lộ Karakoram **Muztagh Ata**, or **Muztagata** (tiếng Uyghur: مۇز تاغ ئاتا, tiếng Музтағ Ата, nghĩa đen theo đúng câu chữ là "cha lớn của núi băng";
thumb|Mô hình về vị trí của Giao Hà, một cao nguyên có hình chiếc lá **Giao Hà** hay **Yarkhoto** là một tòa cổ thành nằm ở thung lũng Yarnaz, cách thành phố Turfan 10 km về
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Aksai Chin** (tiếng Trung: 阿克赛钦; bính âm: Ākèsàiqīn, Hán Việt: A Khắc Tái Khâm, Hindi: अक्साई चिन, tiếng Urdu: اکسائی چن) là một trong hai khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Ấn Độ,