✨Sông Tarim

Sông Tarim

Sông Tarim (tiếng Trung: 塔里木河; bính âm Tǎlǐmù Hé; Hán-Việt: Tháp Lý Mộc Hà, tiếng Duy Ngô Nhĩ: تارىم دەرياسى) là con sông chính tại Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Sông Tarim là sự hợp thành của sông Aksu (A Khắc Tô) và sông Yarkand (Diệp Nhĩ Khương), chảy theo hướng đông quanh sa mạc Taklamakan. Sông Muzat là một trong các chi lưu của nó.

Người Trung Quốc ban đầu cho rằng sông Tarim là phần thượng nguồn của Hoàng Hà nhưng vào khoảng thời kỳ Tây Hán (206 TCN-9) thì người ta đã biết rằng nó chảy vào Lop Nur, một loạt các hồ nước mặn. Tổng chiều dài của nó khoảng 1.060 km (659 dặm Anh), nếu tính cả sông Yarkand tới chỗ hợp lưu với sông Aksu thì tổng chiều dài là 2.030 km (1.261 dặm Anh).

Đặc điểm

Sông Tarim được hình thành từ sự hợp lưu của các sông Aksu, Yarkand và sông Hotan (hay sông Hòa Điền, thường khô cạn) ở khoảng 37 km (23 dặm Anh) phía xuôi dòng từ nơi hợp lưu của sông Yarkand và sông Kashgar tại miền tây Tân Cương. Chỉ có sông Aksu là có dòng chảy quanh năm. Nó là chi lưu quan trọng nhất của sông Tarim, cung cấp khoảng 70–80% lượng nước của con sông chính này. Tên gọi Tarim được sử dụng cho đoạn phía dưới nơi hợp lưu của sông Hotan. Tổng chiều dài hệ thống sông Yarkand-Tarim là khoảng 2.030 km (1.261 dặm Anh), mặc dù sông Tarim thường xuyên thay đổi dòng chảy của nó nên tổng chiều dài cũng thay đổi theo thời gian. Trước khi hoàn thành các hồ chứa nước và hệ thống tưới tiêu vào giữa thế kỷ 20 thì nước từ sông Tarim cuối cùng chảy tới Lop Nur (hiện nay là phần đáy hồ che phủ bằng các lớp muối). Hiện tại nước sông Tarim chảy không liên tục vào hồ Taitema, một hồ khoảng 160 km (100 dặm Anh) ở phía tây nam Lop Nur. Diện tích lưu vực sông Tarim là khoảng 557.000 km² (215.000 dặm vuông Anh). Một phần đáng kể của sông Tarim là không cố định, với lòng sông không rõ ràng. Lượng nước ở phần hạ du sông Tarim bị thu nhỏ do sự bay hơi nhanh cùng các hệ thống phân chia nước. Thời kỳ ít nước của sông Tarim là từ tháng 10 cho tới tháng 4 năm sau. Về mùa xuân và mùa hè thì nước dâng lên từ tháng 5 và kéo dài tới tháng 9 do tuyết tan chảy từ các dãy núi Thiên Sơn và Côn Lôn.

Nó là con sông nội lưu dài nhất tại Trung Quốc với tổng lưu lượng dòng chảy hàng năm đạt 4-6 tỷ mét khối (127–190 m³/s). Khu vực thung lũng sông Tarim là quê hương của gần 10 triệu người Hán cùng các dân tộc thiểu số khác, bao gồm cả người Duy Ngô Nhĩ và người Mông Cổ.

Sông Tarim là một con sông nông, không thích hợp cho giao thông thủy, và do nó chứa nhiều bùn nên tạo thành nhiều sông con gần cửa sông trong vùng lòng chảo Godzareh. Nó cũng là nguồn gốc để đặt tên cho vùng bồn địa Tarim lớn và khô cằn nằm giữa hai dãy núi Thiên Sơn và Côn Lôn ở Trung Á.

Sông Tarim chảy ngay ở phía bắc cao nguyên Thanh Tạng. Nó chảy trong phần lớn chiều dài của mình qua sa mạc Taklamakan. Từ 'tarim' được sử dụng để chỉ phần bờ của các đoạn sông mà nó chảy được vào hồ hoặc phần bờ của các đoạn sông mà nó không thể phân biệt được với cát từ sa mạc. Đây cũng là đặc trưng thủy văn của nhiều con sông chảy ngang qua vùng cát của sa mạc Taklamakan. Một đặc trưng khác của các con sông trong bồn địa Tarim, bao gồm cả chính sông Tarim, là sự dịch chuyển dòng chảy của chúng, nghĩa là sự dịch chuyển của cả các bờ và lòng sông.

Vùng lưu vực hạ du sông Tarim là một bình nguyên khô cằn hợp thành từ các trầm tích hồ và bồi tích, được giới hạn bởi các dãy núi hùng vĩ. Vùng bình nguyên này là khu vực khô cằn nhất trên đại lục Á-Âu. Phần chủ yếu của nó là sa mạc Taklamakan, với diện tích chứa toàn cát là trên 270.000 km² (105.000 dặm vuông Anh). Ngoài ra, tại đây còn một vài khối núi tương đối nhỏ với diện tích trong khoảng 780-4.400 km² (300-1.700 dặm vuông Anh). Các cồn cát là kiểu địa hình chủ yếu.

lượng mưa

Lượng mưa tại bồn địa Tarim là cực kỳ ít và một số năm thì hoàn toàn không có. Tại sa mạc Taklamakan và trong bồn địa Lop Nur, tổng lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 12 mm (0,5 inch). Trong các khu vực chân núi và ở một vài nơi khác thuộc lưu vực sông thì lượng mưa đạt 50–100 mm (2-4 inch) mỗi năm. Trong khu vực Thiên Sơn thì nói chung ẩm ướt hơn, lượng mưa thường trên 500 mm (20 inch). Nhiệt độ tối đa trong bồn địa Tarim là khoảng 40 °C (104 °F). Sông Tarim bị đóng băng hàng năm từ tháng 12 cho tới tháng 3 năm sau.

Sự sống

Thảm thực vật trong lưu vực sông Tarim chủ yếu phân bố dọc theo sông và các nhánh của nó. Tại đây, ở rìa các cồn cát, người ta thấy có thảm thực vật dạng cây bụi và cây gỗ cằn cỗi, đặc biệt là các dạng ngải. Các khu rừng nhỏ, chứa các loài dương, cũng mọc trong thung lũng sông Tarim. Các loài cây bụi thấp bao gồm liễu (Salix spp.), gai cát (Hippophae spp.), các cụm gai dầu Ấn Độ (Apocynum cannabinum) rậm rạp và cam thảo (Glycyrrhiza uralensis).

Sông Tarim nhiều cá, và sự sống động vật trên sông cùng sa mạc xung quanh là hay biến đổi. Thung lũng và các hồ trong bồn địa Tarim là điểm dừng cho nhiều loài chim di trú.

Dân cư

Mặc dù chính quyền Trung Quốc đã có nhiều chính sách trong việc áp dụng thủy lợi hóa ở quy mô lớn nhưng nông nghiệp ốc đảo vẫn là trụ cột của các khu dân cư thưa thớt trong khu vực. Ngũ cốc, bông, lụa, hoa quả và len là các sản phẩm nông nghiệp chính, còn ngọc Hòa Điền là mặt hàng quan trọng khác duy nhất. Người ta xuất khẩu rất ít từ khu vực này, nhưng các sản phẩm dư thừa địa phương vẫn tìm được thị trường trong số các du khách tới đây khi điều kiện cho phép.

Hàng năm, chính quyền Trung Quốc tại khu vực tây bắc Tân Cương đã và đang di chuyển hàng trăm hộ gia đình dân tộc thiểu số làm nông nghiệp và sinh sống dọc theo sông Tarim. Vào năm 2008, trên 6.000 hộ gia đình dọc theo sông Tarim đã được tái định cư và bị cấm gieo trồng dọc theo các bờ sông, một cố gắng nhằm tiết kiệm 60 triệu mét khối (16 tỷ gallon) nước.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sông Tarim** (tiếng Trung: 塔里木河; bính âm Tǎlǐmù Hé; Hán-Việt: Tháp Lý Mộc Hà, tiếng Duy Ngô Nhĩ: تارىم دەرياسى) là con sông chính tại Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương
Sa mạc Taklamakan trong **lòng chảo Tarim**. **Lòng chảo Tarim**, (tiếng Trung: 塔里木盆地, Hán-Việt: Tháp Lý Mộc bồn địa) là một trong số các lòng chảo khép kín lớn nhất trên thế giới có diện
**Sông Khai Đô** (), cũng được biết tới với tên thời cổ là sông Lưu Sa () là một sông tại Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương tại Trung Quốc và là một
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Thiên Sơn** (, ; _Tjansan_; Thổ Nhĩ Kỳ cổ: **𐰴𐰣 𐱅𐰭𐰼𐰃**, _Tenğri tağ_; ; , _Tenger uul_; , Тәңри тағ, _Tengri tagh_; , _Teñir-Too/Ala-Too_, تەڭىر-توو/الا-توو; , **', تأڭئرتاۋ; , _Тян-Шан, Тангритоғ_, تيەن-شەن) còn được gọi
**Aksai Chin** (tiếng Trung: 阿克赛钦; bính âm: Ākèsàiqīn, Hán Việt: A Khắc Tái Khâm, Hindi: अक्साई चिन, tiếng Urdu: اکسائی چن) là một trong hai khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Ấn Độ,
Lòng chảo Tarim vào thế kỷ 3, Thiện Thiện được biểu thị với tên "Shanshan" nhỏ|mảnh lụa [[Lâu Lan]] **Thiện Thiện** (; ) là một vương quốc từng tồn tại khoảng từ năm 200 TCN-1000
**Châu Á** phần lớn nằm ở Bắc bán cầu, là châu lục có diện tích lớn nhất trên thế giới. Thiên nhiên của châu Á rất đa dạng. Diện tích châu lục này bao phủ
thumb|Bản đồ hiển thị [[Danh sách các vùng lãnh thổ tranh chấp của Ấn Độ|vùng lãnh thổ tranh chấp của Ấn Độ]] Chủ quyền đối với hai phần lãnh thổ tách biệt đã bị tranh
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Moghulistan** (Mughalistan, Hãn quốc Moghul) (từ tiếng Ba Tư: مغولستان, Moqulestân / Moġūlistān), còn được gọi là **Đông Sát Hợp Đài Hãn quốc** (tiếng Trung Quốc: 东 察合台 汗国; bính âm: Dōng Cháhétái Hànguó) là
**Hành lang Hà Tây** hay **hành lang Cam Túc** (, âm Hán Việt:_Hà Tây tẩu lang_) đề cập tới tuyến đường lịch sử tại tỉnh Cam Túc ở Trung Quốc. Hành lang là một phần
**Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc** (chữ Hán: 準噶爾汗國) hay **Hãn quốc Zunghar**, là một đế quốc du mục trên thảo nguyên châu Á. Hãn quốc nằm trên khu vực được gọi là Dzungaria và trải
Ngữ tộc **Tochari**, còn viết là **Tokhari**, là một nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu đã biến mất. Nó được biết đến nhờ những bản viết tay có niên đại từ thế kỷ VI-IX, tìm thấy trong
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Người Tochari** hay **người Tokhari** là một dân tộc Ấn-Âu từng cư ngụ trong những thành bang ốc đảo cạnh rìa bắc lòng chảo Tarim (nơi ngày nay thuộc Tân Cương, Trung Quốc) vào thời
nhỏ|phải|[[Howard Carter kiểm tra quan tài trong cùng để xác ướp vua Tutankhamun]] **Xác ướp** là một người hoặc động vật có da với các cơ quan đã được bảo quản bằng cách tiếp xúc
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
Lòng chảo Tarim vào thế kỷ 3, Quy Từ được biểu thị với tên Kuqa (màu cam) Tượng bán thân của [[Bồ Tát đến từ Quy Từ, thế kỷ 6-7. Bảo tàng Guimet.]] **Khố Xa**
Right|Dzungaria và bồn địa Tarim (Taklamakan) chia tách bởi dãy núi Thiên Sơn nhỏ|Bản đồ của [[Johan Gustaf Renat, khoảng năm 1744]] **Dzungaria** (; chữ Mông Cổ Kirin: Зүүнгар; Văn tự Mông Cổ cổ: **᠋᠋᠋ᠬᠠᠯᠬ
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
**Chiến tranh Đường – Kucha** là một chiến dịch quân sự dưới sự chỉ huy của tướng nhà Đường Ashina She'er chống lại vương quốc nhỏ Kucha ở lòng chảo Tarim thuộc Tây Vực, gần
**Hươu Yarkand** hay còn gọi là **hươu Tarim** hay **hươu Lop Nor** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus yarkandenis_) là một phân loài của loài hươu đỏ có nguồn gốc từ vùng Trung Á. ##
Cảnh quan sa mạc Taklamakan Sa mạc Taklamakan tại [[lòng chảo Tarim.]] nhỏ|phải|Một [[quạt bồi tích khổng lồ giữa các dãy núi Côn Lôn và Altun-Tagh tạo thành ranh giới phía nam của sa mạc
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
nhỏ|Cung hoàng đạo bằng tiếng Khotan BLI6 OR11252 1R2 1 nhỏ|Những câu thơ tiếng Khotan BLE4 IOLKHOT50 4R1 1 nhỏ|Sách của Zambasta BLX3542 OR9614 5R1 1 **Tiếng Saka** là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn
**Bắc Á** là một tiểu khu vực ở châu Á bao gồm phần châu Á của Nga (đôi khi còn được gọi là **Nga thuộc châu Á**). Thuật ngữ này không được phổ biến. Đôi
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Yên Kì** (; Wade-Giles _Yen-ch’i_; tiếng Phạn **अग्निदेस Agnideśa**), hay **Karasahr** (cũng viết là **Karashahr**, nghĩa là 'thành phố đen' trong tiếng Uyghur), trước đây còn gọi là A Kì Ni (阿耆尼) hay Ô Di
**Thổ Phồn** (chữ Hán: 吐蕃, bính âm: _Tǔbō_, tiếng Tạng: , THL: _Bö chen po_), hoặc **Đại Phồn quốc** (chữ Hán: 大蕃国, bính âm: _Dàbō guó_), là một đế quốc của người Tạng tồn tại
[[Trương Khiên đi Tây Vực (bích họa ở Đôn Hoàng).]] **Tây Vực** (chữ Hán: 西域, bính âm: _Xi-yu_ hoặc _Hsi-yu_) là cách người Trung Quốc ngày xưa gọi các nước nằm ở phía Tây của
**Tháp giáo đường** (, tiếng Ả Rập _manāra_ (ngọn hải đăng) منارة, hay مئذنة) là đặc trưng kiến trúc các thánh đường Hồi giáo của Hồi giáo, nói chung chúng là những tháp cao với
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Galdan** (, chữ Hán: 噶爾丹, Hán Việt: **Cát Nhĩ Đan** hay cũng phiên thành **Cát Lặc Đan** (噶勒丹) 1644 - 1697), là một Đại hãn người Mông Cổ nhánh Oirat của Hãn quốc Chuẩn Cát
**Lịch sử của Afghanistan,** (**' **' **' **') với tư cách là một nhà nước bắt đầu vào năm 1747 với sự thành lập của Ahmad Shah Durrani. Văn bản ghi lại lịch sử của
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
thumb|right|Đồng bằng tây Siberian trên ảnh vệ tinh vùng [[Bắc Á.]] **Bể dầu khí Tây Siberia** là bể dầu khí có diện tích lớn nhất trên thế giới, trải rộng trên diện tích 2,2 triệu
**Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009** là một loạt các cuộc bạo động kéo dài nhiều ngày, bắt đầu nổ ra vào ngày 5 tháng 7 năm 2009 tại Ürümqi, thủ phủ của
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Lâu Lan** (; ) là một quốc gia cổ, tồn tại từ thế kỷ II TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan quốc nằm trên