✨Gà


:

nhỏ|phải|Gà mái nhỏ|Gà con nhỏ|Gà trống (danh pháp hai phần: Gallus domesticus) là một phân loài chim đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Một số ý kiến cho rằng loài này có thủy tổ từ loài gà rừng ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ nhiệt đới ở vùng Đông Nam Á. Trong thế giới loài chim, gà là loài vật có số lượng lớn nhất với 24 tỉ cá thể (thống kê vào năm 2023, chủ yếu là gà nuôi). Con người thường sử dụng thịt gà, trứng gà và lông gà để làm thực phẩm và tạo ra những sản phẩm mang giá trị hàng hoá thị trường, phục vụ cho kinh tế quốc gia. Ngoài ra, ngày nay, người ta còn dùng gà để làm các thí nghiệm nghiên cứu khoa học trong các ngành sinh học, vật lý, hóa học.

Đặc điểm

nhỏ|trái|Cận cảnh đầu một con gà trống Gà là loài ăn tạp. Trong tự nhiên, chúng thường bới đất tìm hạt cây, côn trùng, thằn lằn hoặc chuột nhắt con. Tuổi thọ của gà có thể từ năm đến mười năm tùy theo giống. Con gà mái già nhất thế giới sống được 16 năm và được ghi vào Sách Kỷ lục Guinness. Gà trống thường trông khác biệt với gà mái bởi bộ lông sặc sỡ, chiếc đuôi dài và bóng, lông nhọn trên cổ và lưng thường sáng và đậm màu hơn. Tuy vậy, ở một số giống gà như giống Sebright thì gà trống có màu giống gà mái, chỉ khác chút ít ở phần lông cổ hơi nhọn. Có thể phân biệt trống - mái dựa trên mào gà hoặc sự phát triển của cựa ở chân gà trống. Gà trưởng thành còn có những yếm thịt trên cổ phía dưới mỏ. Cả gà trống và mái đều có mào và yếm thịt, tuy nhiên ở đa số giống gà thì những đặc điểm này chỉ nổi bật ở gà trống. Ở một số giống, xảy ra đột biến khiến dưới đầu gà có một phần lông trông tựa như râu ở người.

Mặc dù nhìn chung những cá thể gà nhẹ cân có thể bay quãng ngắn ở tầm thấp như qua hàng rào hoặc bụi cây, nhưng hầu hết các giống gà nhà thuộc nhóm chim đào bới nên không có khả năng bay xa như nhóm chim bay với cấu tạo cơ thể đầy đủ bộ phận thích nghi tập tính trên không. Gà thỉnh thoảng bay từng chập khi khám phá khu vực xung quanh hoặc trốn khỏi nguy hiểm.

Tập tính

Gà là loài sinh sống thành đàn khi các thói quen sinh hoạt, ấp trứng và nuôi con mang tính cộng đồng. Lúc gặp nguy hiểm, gà con sẽ núp dưới cánh của gà mẹ.

Các cá thể gà trong đàn sẽ thiết lập hệ thống tôn ti trật tự (dựa trên nguyên tắc "mạnh được, yếu thua") bằng cách giành giật nhau đặc quyền tiếp cận thức ăn, giao phối và địa điểm làm tổ. Khi có cá thể mạnh mất khỏi đàn, hệ thống trật tự này bị phá vỡ một thời gian ngắn đến khi một trật tự mới được thiết lập. Việc bổ sung gà mái - đặc biệt là gà trẻ vào đàn có sẵn có thể dẫn đến xung đột và thương tích. Khi gà trống tìm ra mồi, nó sẽ kêu "cục tác", nhặt thức ăn và thả xuống, gọi các gà khác đến ăn trước. Tương tự, có thể quan sát thấy hành vi này ở gà mẹ khi chúng gọi gà con đến ăn.

Gà trống thường gáy to vào buổi sáng. Tiếng gáy của gà trống (thường có âm lượng lớn, thỉnh thoảng gây chói tai) còn là tín hiệu thông báo cho các gà trống khác về lãnh thổ. Tuy nhiên, gà có thể gáy khi bất ngờ bị phá rối. Gà mái cục tác ầm ĩ sau khi đẻ trứng và khi gọi gà con. Gà cũng có "tiếng kêu cảnh báo" âm lượng thấp khi chúng cho rằng có sự xuất hiện của loài ăn thịt.

Gà mái

Để bắt đầu màn tỏ tình, một số gà trống nhảy vòng tròn xung quanh hoặc gần gà mái, hạ thấp chiếc cánh gần nhất với gà mái (gọi là gù mái). Sau khi được gà mái đáp lại, cuộc giao phối có thể bắt đầu (gọi là đạp mái).

Nhảy ổ

Gà mái thường đẻ trứng trong những chiếc tổ đã có sẵn trứng từ trước; ngoài ra, người ta còn quan sát thấy chúng chuyển trứng từ tổ của những con khác sang tổ của mình. Do tập tính này mà một đàn gà chỉ có một số địa điểm đẻ trứng yêu thích thay vì mỗi con có một tổ khác nhau. Gà mái thường tỏ ra thích đẻ trứng ở một nơi nhất định. Hai hoặc nhiều gà có thể cố gắng chia sẻ ổ với nhau cùng một lúc. Trong trường hợp ổ quá nhỏ hoặc một con gà quá cương quyết không chịu rời đi thì các gà mái sẽ cố nằm đè lên nhau. Có bằng chứng cho thấy các cá thể gà mái hoặc thích làm tổ một mình hoặc làm tổ tập thể. Có những người nuôi gà dùng trứng giả làm bằng nhựa hoặc đá để khuyến khích gà đẻ trứng ở nơi mà họ muốn.

Đòi ấp và úm gà

[[Trứng (sinh học)|Trứng gà]] nhỏ|phải|Các giai đoạn thai nghén ban đầu và tuần hoàn máu trong phôi gà Trong tự nhiên, đa số gà chỉ đẻ đầy một ổ trứng rồi ngưng và bắt đầu ấp. Hành vi này được gọi là đòi ấp. Gà đòi ấp sẽ ngưng đẻ để chỉ tập trung vào việc ấp trứng (một ổ khoảng 12 quả). Trong thời gian này, gà ít ra khỏi tổ để ăn hay tắm, đồng thời sẽ mổ nếu bị làm phiền hoặc bị đẩy khỏi ổ. Gà mái duy trì nhiệt độ và độ ẩm trong tổ, đồng thời lật trứng trong giai đoạn đầu.

Hết thời gian ấp (khoảng 21 ngày),

Giống gà

Nguồn gốc

Gà rừng lông đỏ Gà nhà có nguồn gốc là gà rừng lông đỏ (Gallus gallus) và được phân loại khoa học vào cùng loài này. Phân tích gien gần đây hé lộ rằng ít nhất gen da vàng ở gà là do lai giống với gà rừng lông xám (G. sonneratii). Quan niệm chăn nuôi gia cầm truyền thống được từ điển bách khoa Encyclopædia Britannica (2007) viết như sau: "Con người lần đầu tiên thuần hóa gà tại tiểu lục địa Ấn Độ với mục đích để làm gà chọi ở châu Á, châu Phi và châu Âu. Có rất ít sự chú ý chính thức dành cho việc nuôi lấy trứng hay lấy thịt..." Vào thập niên trước, đã có nhiều nghiên cứu về gien. Dựa theo nghiên cứu của một nhóm nhà khoa học người Nhật, một vụ thuần hóa đơn lẻ ở nơi mà ngày nay thuộc Thái Lan đã tạo nên loài gà có khác biệt rất ít so với các giống gà hiện đại. Tuy nhiên, nghiên cứu đó về sau bị phát hiện là dựa trên các số liệu không đầy đủ. Các nghiên cứu về sau chỉ ra nhiều nguồn gốc của gà với nhánh ở châu Mỹ, châu Âu, Trung Đông và châu Phi, đều bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ - nơi có nhiều haplotype độc đáo. Người ta công nhận rằng gà rừng, tức "gà tre" trong nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á, là một loại gà lôi đặc biệt đã thích nghi nhằm tận dụng lượng trái cây dồi dào sinh ra trong giai đoạn cuối của vòng sinh trưởng dài 50 năm của cây tre nhằm tăng sinh sản. Theo Daniel H. Janzen từ Đại học Pennsylvania, trong quá trình thuần hóa gà, con người đã lợi dụng sự mắn đẻ mà gà có được khi chúng có nhiều thức ăn.

Dựa theo các giả định cổ khí hậu học, có nghiên cứu vào năm 1988 cho rằng gà được thuần hóa ở vùng Hoa Nam vào năm 6000 trước Công nguyên. Tuy vậy, một nghiên cứu vào năm 2007 cho rằng "chưa biết liệu những con chim này có đóng góp nhiều cho sự hình thành gà nhà hiện đại hay là không. Gà xuất xứ từ Văn minh lưu vực sông Ấn (2500-2100 trước Công nguyên), nơi mà ngày nay thuộc Pakistan, có thể là nguồn chính cho sự lan truyền của gà trên toàn thế giới." Một con đường dẫn về phương bắc đã đưa gà đến lòng chảo Tarim ở Trung Á. Gà đến châu Âu (România, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Ukcraina) vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Tây Âu tiếp xúc với gà muộn hơn, khoảng vào thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Phoenicia đã mang gà dọc theo bờ biển Địa Trung Hải đến bán đảo Iberia. Việc nuôi gà phát triển dưới thời Đế quốc La Mã nhưng suy giảm trong thời Trung Cổ. Các kết quả này có vẻ đã xác nhận rằng gà đến từ Polynesia và tồn tại mối liên hệ xuyên đại dương giữa Polynesia và Nam Mỹ từ trước khi Cristoforo Colombo đến châu Mỹ. Tuy nhiên, một báo cáo về sau cũng dùng mẫu vật đó để phân tích và đi đến kết luận phủ nhận tuyên bố của nghiên cứu trước.

Các bệnh trên gà

Gà dễ mắc các loại ký sinh, gồm phthiraptera, bét, ve, bọ chét và giun đũa cũng như dễ mắc các bệnh tật khác.

Một số bệnh thường gặp trên gà là:

Trong văn hóa

Từ thời cổ đại, gà đã là một loài vật linh thiêng trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo. Người Hy Lạp sau khi tiếp xúc với văn hóa Ba Tư đã dùng thuật ngữ "chim Ba Tư" để chỉ gà trống "do tầm quan trọng to lớn và công năng tôn giáo của gà trống trong xã hội Ba Tư".

Tại Indonesia, gà mang ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghi lễ hỏa táng của đạo Hindu. Gà ở đây được xem là đường nối cho linh hồn xấu xa. Trong buổi lễ, gà bị thắt chân để bảo đảm rằng mọi linh hồn xấu xuất hiện trong buổi lễ sẽ nhập vào gà thay vì nhập vào các thành viên trong gia đình tại đó. Sau lễ, người ta mang gà về nhà và nó lại tiếp tục cuộc sống bình thường.

Người Hy Lạp cổ đại thường không dùng gà để hiến tế, có lẽ là do nó vẫn được xem là loài vật ngoại lai. Nhờ sở hữu tính dũng cảm mà gà trống được cho là tượng trưng của thần Ares, Heracles và Athena. Plato thuật lại những lời được cho là cuối cùng từ miệng Socrates trước khi ông chết, đó là "Crito, tôi nợ Asclepius một con gà trống; ông sẽ trả món nợ này hộ tôi chứ?"

Người Hy Lạp tin rằng ngay đến sư tử cũng còn sợ gà trống. Một số truyện ngụ ngôn Aesop có đề cập đến tín ngưỡng này.

nhỏ|phải|Gà trống Ba Tư Vatican - bản in vải năm 1919 thể hiện một mẫu vẽ gà trống Ba Tư thuộc [[Tòa Thánh, niên đại là năm 600. Để ý rằng vầng hào quang thể hiện sự linh thiêng.]]

Trong kinh Tân Ước, Giê-su đã tiên đoán sự phản bội của Thánh Phêrô: "Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần." (Lc 22:34) Lời tiên tri đó đã thật sự trở thành sự thật (Lc 22:61). Điều này khiến gà trống trở thành biểu tượng của sự cảnh giác và sự phản bội. Trong Phúc Âm Mát-thêu, Phúc âm Máccô và Phúc âm Luca của Tân Ước đều đề cập chuyện gà trống đóng vai trò là hiện thân của Giê-su. Vào thế kỷ VI, Giáo hoàng Grêgôriô I tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Vào thế kỷ IX, Giáo hoàng Nicôla I

Chúa Giê-su so sánh ông với gà mái mẹ khi nói về Jerusalem: "Hỡi Jerusalem, Jerusalem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng hứng." (Mt 23:37; Lc 13:34).

Trong nhiều truyện cổ tích Trung Âu, người ta tin quỷ dữ sẽ chạy trốn khi nghe tiếng gáy đầu tiên của gà trống.

Theo lệ thường, người Do Thái giáo chính thống sẽ đu đưa một động vật ăn kiêng (kosher) quanh đầu mình và xả thịt nó vào buổi chiều trước ngày Yom Kippur - ngày sám hối linh thiêng của người Do Thái - trong một nghi thức gọi là kapparos. Động vật thường dùng là gà hoặc cá do chúng có sẵn (và có kích cỡ vừa tay cầm). Nghi lễ hiến tế này mang ý nghĩa rằng động vật đó sẽ mang đi mọi tội lỗi của người làm lễ. Thịt của con vật sau đó sẽ được bố thí cho người nghèo. Phụ nữ mang gà mái đến dự lễ trong khi đàn ông mang gà trống. Mặc dù nghi lễ này không thực sự mang ý nghĩa hiến tế như trong kinh thánh nhưng cái chết của vật hiến tế nhắc nhở những kẻ sám hối rằng sinh mạng của họ nằm cả trong tay Thượng đế.

Sách Talmud có nói đến việc học hỏi "tính lịch thiệp đối với bạn đời" từ gà trống (Eruvin 100b). Như đã nói ở trên, khi gà trống tìm thấy thứ gì ăn được, nó sẽ gọi các gà mái đến ăn trước. Sách Talmud viết "Giả sử nếu chúng ta không có kinh Torah thì chúng ta sẽ học sự nhu mì từ mèo, sự cần cù lao động lương thiện từ kiến, sự trinh bạch từ bồ câu và sự lịch thiệp từ gà trống" - (Jonathan ben Nappaha. Talmud: Erubin 100b)

Gà cũng là một trong 12 con giáp. Theo tôn giáo dân gian của Trung Quốc thì gà là món dành riêng để kính dâng lên tổ tiên và thờ cúng thành hoàng. Theo một số quan sát thì việc cúng gà thường đi kèm với màn cầu khấn "nghiêm túc", trong khi tại các lễ hội vui vẻ thì người ta dùng thịt lợn nướng thay vì thịt gà. Trong các đám cưới Khổng giáo, gà được dùng làm vật thế thân cho người nào bị bệnh hay vắng mặt (chẳng hạn bị chết bất ngờ) không dự được hôn lễ. Người ta đặt khăn quàng bằng lụa đỏ lên đầu gà, và một người họ hàng gần của cô dâu/chú rể vắng mặt sẽ ôm con gà để tiến hành lễ cưới. Tuy nhiên, ngày nay hiếm có ai còn theo tục này.

Rắn thần được xem là nở ra từ trứng gà trống và sẽ chết khi nghe tiếng kêu của gà trống.

Trong lịch sử

Tranh vẽ hai con gà đang đá nhau Gà chắc hẳn đã sớm được thuần hóa ở Đông Nam Á do từ ngữ để chỉ gà nhà (*manuk) là một phần của ngữ hệ Nam Đảo nguyên thủy. Gà, chó và lợn là những vật nuôi trong nền văn hóa Lapita - nền văn hóa thời đồ đá mới đầu tiên của châu Đại Dương. Tranh vẽ đầu tiên về gà ở châu Âu được tìm thấy trên món đồ gốm Korinthos niên đại thế kỷ VII trước Công nguyên. Nhà thơ Cratinus gọi gà là "cái chuông cảnh báo của Ba Tư". Vở hài kịch Những Con Chim của Aristophanes (414 trước Công nguyên) gọi gà là "chim Media", ý chỉ nguồn gốc của gà là từ phương Đông. Hình ảnh về gà có trên đồ gốm đỏ và đen của Hy Lạp. Ở Hy Lạp cổ đại, gà còn hiếm và là loại thực phẩm khá danh giá trong các tiệc rượu đêm Hy Lạp. Đảo Delos dường như từng có một trung tâm gây giống gà.

Người La Mã cổ đại dùng gà trong thuật bói chim để nhận lời tiên tri. Một người (gọi là pullarius) sẽ chăm sóc gà, khi nào cần bói thì ông ta sẽ mở lồng và cho nó hạt đậu hoặc một loại bánh ngọt mềm đặc biệt. Nếu con gà ở nguyên trong lồng và gây ra tiếng động ("occinerent"), đập cánh hoặc bay đi thì đó là điềm xấu; nếu con gà ăn ngấu nghiến thì là điềm tốt. Năm 249 trước Công nguyên, trước trận chiến Drepana, vị tướng La Mã là Publius Claudius Pulcher đã sai người vứt "những con gà thiêng" xuống biển do chúng từ chối ăn. Ông còn nói "Nếu chúng nó không ăn thì có lẽ chúng muốn uống nước". Ngay lập tức ông bại trận dưới tay người Carthago và 93 thuyền của La Mã bị đắm. Khi trở về Roma, ông này bị xử tội bất kính và chịu hình phạt nặng nề.

Năm 162 trước Công nguyên, La Mã ra luật Lex Faunia cấm vỗ béo gà mái nhằm để đảm bảo lượng ngũ cốc tích trữ. Do vậy dân La Mã chuyển sang thiến gà trống, kết quả là kích cỡ gà tăng gấp đôi, mặc cho luật của La Mã quy định không được phép ăn gà đã vỗ béo. Luật này được sửa đổi nhiều lần, tuy nhiên dường như không thu được thành công. Sách Apicius viết về ẩm thực của La Mã đã liệt kê 17 món ăn làm từ gà, phần nhiều là các món luộc ăn kèm nước sốt. Người chế biến tận dụng mọi phần của con vật: dạ dày, gan, tinh hoàn và thậm chí cả phần xương bánh lái béo ngậy của con gà (nơi lông đuôi mọc).

Tác giả người La Mã là Columella có nêu lời khuyên về lai giống gà trong quyển thứ tám của bộ chuyên luận về nông nghiệp của ông. Ông xác định có các giống gà gồm Tanagra, Rhodes, Chalcidice và Media (thường bị nhầm thành Melia) - những giống có bộ dạng ấn tượng, bản tính hung hăng và được dùng trong trò chơi đá gà của người Hy Lạp. Tuy nhiên, trong chăn nuôi thì gà bản địa La Mã hoặc gà lai giữa gà mái bản địa và gà trống Hy Lạp lại được ưa chuộng hơn. Cũng theo Columella, một đàn gà lý tưởng nên có khoảng 200 con, có thể do một người trông coi. Nên tránh nuôi gà trắng do chúng không mắn đẻ và dễ bị đại bằng hay chim ó bắt mất. Tỷ lệ gà trống:gà mái nên là 1:5. Riêng gà trống giống Rhodes và Media do có cơ thể to lớn nên không ham muốn giao phối nhiều, vì thế tỷ lệ trống:mái chỉ là 1:3. Gà mái càng to lớn thì càng ít ấp trứng, do vậy tốt hơn hết là để gà mái bình thường ấp số trứng đó. Một gà mái có thể ấp không quá 15-23 quả trứng - phụ thuộc vào thời điểm trong năm - và chăm lo không quá 30 gà con mới nở. Trứng dài và nhọn thì thường nở ra gà trống trong khi đa số trứng tròn thì nở ra gà mái. Columella cũng cho rằng chuồng gà nên quay mặt về hướng đông nam và đặt gần nhà bếp do khói bếp có lợi cho chúng; ông viết "gia cầm sống khỏe nhất trong hơi ấm và khói". Chuồng gà nên có ba gian và có lò sưởi. Nên cho gà tắm trong bụi khô hoặc tro. Columella khuyên cho gà ăn lúa mạch, đậu xanh, hạt kê và cám làm từ lúa mì nếu chúng rẻ tiền. Không nên cho gà ăn thẳng lúa mì do loại lương thực này có hại cho chúng. Ngoài ra có thể cho ăn rơm rạ đã nấu (Lolium sp.), lá và hạt của cỏ linh lăng Medicago sativa L.. Có thể cho gà ăn bã nho, tuy nhiên chỉ nên làm điều này khi gà mái đã ngừng đẻ (tức vào thời điểm giữa tháng 11), bằng không gà sẽ đẻ ít trứng và trứng nhỏ. Khi cho gà ăn bã nho, cần chú ý bổ sung cám. Gà mái bắt đầu đẻ trứng sau Đông chí, khoảng đầu tháng 1 ở những vùng ấm áp và khoảng giữa tháng 2 ở những vùng lạnh hơn. Lúa mạch nấu sơ có tác dụng làm tăng khả năng sinh sản ở gà; nên trộn thứ này với lá và hạt cỏ linh lăng hoặc trộn kèm với đậu tằm hay hạt kê nếu không có cỏ linh lăng. Đối với gà thả vườn, mỗi ngày nên cho chúng ăn hai tách lúa mạch. Columella khuyên nhà nông nên giết thịt gà mái trên 3 tuổi do chúng không còn khả năng đẻ nhiều trứng.

Các nhà đi biển người Polynesia đã mang gà phát tán ra nhiều nơi. Gà đến đảo Phục Sinh vào thế kỷ XII. Ở đây gần như chúng được xem là loài vật nuôi duy nhất. Dân bản địa nuôi gà trong những cái chuồng xây vững chắc bằng đá.

Chăn nuôi gà

Một con gà trống [[gia cầm thả vườn|thả đồng ở một nông trại]] Ngành công nghiệp gia cầm toàn cầu hiện đang tiêu thụ khoảng 50 tỷ con gà hàng năm để làm thực phẩm - trứng và thịt. Chuồng nuôi gà công nghiệp

Đa số gia cầm được nuôi bằng kỹ thuật thâm canh. Theo Viện Worldwatch thì 74% số thịt gia cầm và 68% số trứng được sản xuất theo lối này. Ngoài ra còn có cách nuôi gà thả vườn.

Sự đối lập giữa hai phương pháp nuôi gà nêu trên đã dẫn đến các vấn đề lâu dài của chủ nghĩa tiêu dùng đạo đức. Phe ủng hộ thâm canh cho rằng phương pháp này giúp tiết kiệm đất đai và thức ăn nhờ tăng năng suất; động vật được chăm sóc với hệ thống thiết bị hiện đại được kiểm soát. Phe phản đối cho rằng nuôi thâm canh gây hại cho môi trường, gây nên các nguy cơ đối với sức khỏe con người và là việc làm vô nhân tính.

Nuôi lấy thịt

Gà sống khoảng sáu năm hay hơn, tuy nhiên gà nuôi lấy thịt thông thường chỉ mất sáu tuần là đạt được kích cỡ giết thịt. Gà nuôi thả vườn hay gà nuôi bằng thực phẩm hữu cơ thường bị giết mổ khi đạt 14 tuần tuổi.

Nuôi lấy trứng

Một số giống gà có thể đẻ 300 trứng/năm; sách Kỷ lục Guinness 2011 dẫn ra kỷ lục gà đẻ 371 trứng trong 364 ngày. Khả năng đẻ trứng của gà lấy trứng bắt đầu giảm sau 12 tháng. Gà mái - đặc biệt là những con được nuôi trong hệ thống lồng nối tiếp nhau - rụng đáng kể lông và tuổi thọ sụt giảm từ bảy năm xuống dưới hai năm. Tại Anh và châu Âu, gà lấy trứng khi đó sẽ bị giết thịt và dùng trong thực phẩm chế biến sẵn hoặc bán dưới dạng "gà để nấu súp". hoặc một thời gian đủ dài để làm gà sụt mất 25-35% cân nặng, hoặc tối đa là 28 ngày trong điều kiện thí nghiệm. Việc làm này kích thích gà rụng lông và cũng là kích thích gà đẻ trứng tiếp. Năm 2003, có trên 75% số đàn gà ở Mỹ bị ép phải rụng lông.

Một lò ấp nhân tạo Việc ấp trứng có thể diễn ra thành công dưới bàn tay con người thông qua máy móc cung cấp môi trường ấp chuẩn xác và có kiểm soát. Thời gian ấp trung bình là 21 ngày nhưng có thể phụ thuộc nhiệt độ và độ ẩm trong lò ấp. Việc điều hòa nhiệt độ là yếu tố tối quan trọng để đảm bảo ấp trứng thành công. Chênh lệch quá 1 °C so với nhiệt độ tối ưu 37,5 °C sẽ làm giảm tỷ lệ trứng nở. Độ ẩm cũng có vai trò quan trọng bởi tốc độ bay hơi nước của trứng phụ thuộc độ ẩm tương đối của môi trường xung quanh. Độ ẩm tương đối nên được tăng lên mức khoảng 70% trong vòng ba ngày cuối của kỳ ấp để giữ cho màng trứng không bị khô sau khi gà con mổ nứt vỏ. Độ ẩm thấp cần được duy trì trong 18 ngày đầu tiên nhằm đảm bảo mức bay hơi nước vừa đủ. Vị trí đặt trứng trong lò cũng có thể ảnh hưởng lên tỷ lệ trứng nở. Nhằm đạt kết quả tốt nhất, nên đặt trứng nằm ngược (đầu hướng xuống) và thường xuyên đảo trứng (ít nhất ba lần/ngày) cho đến trước khi trứng nở từ một đến ba ngày. Nếu không lật trứng thì phôi bên trong có thể sẽ bị dính vào vỏ, khiến gà nở ra bị khuyết tật. Ngoài ra, cũng cần thông gió đầy đủ cho trứng để cung cấp đủ khí oxy cho phôi. Trứng càng nhiều tuổi thì càng cần thông gió nhiều hơn.

Các lò ấp thương mại là những kệ ấp kích cỡ công nghiệp có khả năng chứa đến 10.000 quả trứng cùng một lúc và đảo trứng một cách hoàn toàn tự động. Lò ấp trong gia đình là những cái hộp chứa được từ 6 đến 75 quả. Lò thường chạy bằng điện. Trong quá khứ lò ấp từng dùng dầu hoặc đèn dầu để giữ ấm.

Gà làm thực phẩm

Thịt gà

Từ lâu, thịt gà là một loại thực phẩm rất được ưa chuộng trên thế giới. Nếu so sánh với thịt heo và thịt bò thì lượng đạm của thịt gà cao hơn rất nhiều lần, trong khi đó lượng mỡ lại thấp hơn. Ngoài ra, thịt gà được chế biến thành nhiều món ăn ngon khác nhau như cơm gà, gà rán, gà nướng, gà hấp, canh gà, gà luộc xé phay,... Thịt gà là một loại thức ăn nhanh chủ yếu ở các cửa hiệu như McDonald's và KFC.

Trứng gà

Năm 2009, ước có khoảng 62,1 triệu tấn trứng được sản xuất trên toàn cầu với tổng đàn gà đẻ đạt xấp xỉ 6,4 triệu con. Trứng gà được dùng rộng rãi cho nhiều món ăn khác nhau, trong đó có nhiều loại bánh. Lòng trắng trứng chứa đạm nhưng ít hoặc không có chất béo và có thể dùng để chế biến riêng biệt với lòng đỏ. Vỏ trứng có khi được dùng làm phụ gia thực phẩm để bổ sung calci. Gà mái có thể đẻ trứng mà không cần gà trống (gà trống chỉ để thụ tinh cho trứng nếu muốn trứng nở ra gà con).

Một số giống

Gà tre Thái Lan Có nhiều loại gà trong nước lẫn ngoài nước:

  • Gà Ri (giống nội)
  • Gà Nòi (giống nội)
  • Gà Tàu vàng (giống nội)
  • Gà Tò (giống nội)
  • Gà Đông Cảo (giống nội)
  • Gà chín cựa (giống nội)
  • Gà Hồ (giống nội)
  • Gà đồi (giống nội)
  • Gà Tam hoàng (giống ngoại)
  • Gà Liên Minh
  • Gà Lương Phượng (giống ngoại)
  • Gà Trung Quốc hay còn gọi là gà thải loại, gà trọc đầu
  • Gà Hàn Quốc hay còn gọi là gà thải Hàn Quốc, gà thải loại, gà dai, gà dai bọng, gà Sla
  • Gà Hyline (giống ngoại)
  • Gà Hubbard (Hu-bat) (giống ngoại)
  • Gà Lơ-go (giống ngoại)
  • Gà Ai Cập (giống ngoại)

Trò chơi

Ở một số nền văn hóa có trò chơi chọi gà (đá gà).

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
: nhỏ|phải|Gà mái nhỏ|Gà con nhỏ|Gà trống **Gà** (danh pháp hai phần: _Gallus domesticus_) là một phân loài chim đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Một số ý kiến cho
**Ga Seoul** (Tiếng Hàn: 서울역, Tiếng Anh: Seoul station, Hanja: 서울驛) là ga đường sắt nằm ở Yongsan-gu và Jung-gu, Seoul. Đây là điểm bắt đầu của Tuyến Gyeongbu và Tuyến Gyeongui, đồng thời đóng
nhỏ|phải|Một con gà tây bảo tồn nhỏ|phải|Các giống gà tây đa dạng đang được bảo tồn **Gà tây bảo tồn** hay **Gà tây tiêu chuẩn** hay **Gà tây truyền thống** hay **Gà tây thuần chủng**,
nhỏ|phải|Một con gà nòi **Gà nòi** là một giống gà nội địa của Việt Nam được nuôi phục vụ cho những trận chọi gà. Gà nòi là giống gà thuộc nhóm gà trọc đầu. Giống
nhỏ|phải|Gà Busteni **Gà nhà** là giống gia cầm rất phổ biến, hầu như tất cả các quốc gia đều có từ một hay nhiều giống gà, thậm chí nhiều địa phương cũng có một giống
nhỏ|phải|Hai con gà trống đang đá với nhau. nhỏ|phải|Tranh chọi gà do [[Winslow Homer vẽ vào năm (1859)]] **Chọi gà** hay **đá gà** là một trò chơi dân gian phổ biến trên thế giới. Năm
nhỏ|phải|Một con [[gà nòi của Việt Nam]] nhỏ|phải|Một con [[gà chọi Philippines]] **Gà chọi** là tên gọi chung cho các giống gà dùng cho mục đích thi đấu chọi gà.Các giống chọi gà này thường
**Thịt gà** là thực phẩm gia cầm phổ biến nhất trên thế giới. Do có chi phí thấp và dễ chăn nuôi hơn so với các động vật khác như trâu bò hoặc lợn, nên
**Cơm gà Hải Nam** (, ) là một món ăn có nguồn gốc từ Trung Quốc và là một món ăn phổ biến trong ẩm thực Trung Hoa, ẩm thực Malaysia và ẩm thực Singapore;
**Gà rán miền Nam Hoa Kỳ**, hay còn gọi là **gà rán**, là một món ăn xuất xứ từ miền Nam Hoa Kỳ; nguyên liệu chính là những miếng thịt gà đã được lăn bột
**Gà tây nhà** là tên gọi giống gà thuộc loài gà tây hoang (_Meleagris gallopavo_) đã được thuần hóa và nuôi dưỡng như một loại gia cầm để cung cấp nguồn thực phẩm. Thịt gà
**Gà tre** (chính xác là "gà che" theo tiếng Khmer là មាន់ចែ "moan-chae") là một giống gà bản địa đã từng khá phổ biến tại khu vực miền Nam Việt Nam, đặc biệt là Tây
**Con gà**, đặc biệt là **gà trống** hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó
**Ga Cheongnyangni** (Tiếng Hàn: 청량리역, Hanja: 淸凉里驛) hay **Ga Cheongnyangni (Đại học Seoul)** (Tiếng Hàn: 청량리(서울시립대입구)역, Hanja: 淸凉里(市立大入口)驛) là ga tàu của Tuyến Gyeongwon, Tuyến Jungang ở Jeonnong-dong, Dongdaemun-gu, Seoul, Hàn Quốc. Nó còn là
**Ga Ueno** (tiếng Nhật: 上野駅, _Ueno-eki_) là một nhà ga lớn nằm tại quận Taitō, Tokyo. Nhà ga được sử dụng để đi đến quận Ueno và công viên Ueno – bao gồm bảo tàng
nhỏ|phải|Một con gà chọi choai nòi Bình Định (mã kim) **Gà chọi Bình Định** là một giống gà có nguồn gốc ở Bình Định, chúng được nuôi cho mục đích làm gà chọi. Đây là
nhỏ|phải|Hai con gà chọi Pêru Gallo Navajero Peruano gồm mã kim (bên trái) và mã mái (bên phải) **Gà chọi Pêru** (tên địa phương: _Gallo Navajero Peruano_, tên tiếng Anh: Peruvian Razor Rooster) hay còn
**Gà thịt** hay **gà lấy thịt** hay **gà hướng thịt** hay **gà thịt thương phẩm** là các giống gà được lai tạo, chọn lọc để chăn nuôi nhằm mục đích chuyên về việc sản xuất
**Gà công nghiệp**, **gà thịt công nghiệp** hay **gà nuôi theo kiểu công nghiệp** là gà được chăn nuôi tập trung theo quy trình công nghiệp, thông thường chúng là dạng gà thịt và được
nhỏ|phải|Một con Semara **Gà Serama** hay còn gọi là **gà tre Mã Lai**, **gà thượng lưu** hay **gà vương giả** hay **gà thành phố** là một giống gà có nguồn gốc từ Mã Lai và
**Gà Chabo** hay **gà bantam Nhật Bản** hay **gà tre Nhật Bản** (Chữ Nhật: 矮鶏/ Hán Việt: Ải kê) là giống gà có xuất xứ từ Nhật Bản. Đây là giống gà đẹp được ưa
**Gà vảy cá** hay **gà Sebright** là một giống gà có nguồn gốc từ nước Anh và được nuôi để làm gà kiểng. Chúng ra đời bắt nguồn vào thế kỷ XIX và hình thành
**Gà Linh Phượng** hay còn gọi là **gà Ross** hay **gà Ross 208** là một giống gà công nghiệp chuyên thịt cao sản có nguồn gốc từ vùng Aisơlen thuộc Anh và được phát triển
nhỏ|phải|Một đàn gà thả vườn ở Israel **Gà Kabir** (phát âm tiếng Việt như là _gà Kabia_) là giống gà công nghiệp lấy thịt có nguồn gốc từ Israel được chăn nuôi theo hình thức
nhỏ|phải|Hai con gà Sasso tại vùng de la Drôme **Gà Sasso** (phát âm tiếng Việt như là: **gà Sac-sô**) còn gọi là **gà Label Sasso** là giống gà công nghiệp có xuất xứ từ Pháp,
**Ga Suseo** (Tiếng Hàn: 수서역, Hanja: 水西驛) là ga đường sắt và là ga cuối của SRT; ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 3, Tuyến Suin–Bundang và Đường sắt
nhỏ|phải|Một con gà lông màu đậm **Gà lông màu** hay **gà màu** là thuật ngữ để phân loại các nhóm gà công nghiệp trong quá trình chăn nuôi gia cầm theo phương thức công nghiệp,
nhỏ|Một sân ga tại [[Ga Sài Gòn, Việt Nam]] nhỏ|Một sân ga tại ga Rotterdam Centraal, Hà Lan nhỏ|Các sân ga tại ga Arts et Métiers trên Tuyến số 11 Đường sắt đô thị Paris
**Gà Tò có xuất xứ từ làng Tò (nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).** Gà Tò là một giống gà quý, đặc biệt chất lượng, nhiều thịt, thơm ngon, da
**Ga Nhà ga 1 sân bay Quốc tế Incheon** (Tiếng Hàn: 인천공항1터미널역, Tiếng Anh: Incheon International Airport Terminal 1 station, Hanja: 仁川空港1터미널驛) là ga tàu điện ngầm và ga trung chuyển cho Đường sắt sân
**Ga Jongno 3(sam)-ga** (Tiếng Hàn: 종로3가역, Hanja: 鍾路3街驛) hay **Ga Jongno 3(sam)-ga (Công viên Tapgol)** (Tiếng Hàn: 종로3가 (탑골공원), Hanja: 鍾路3街(탑골公園)驛) là ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1,
**Ga Sadang** (Tiếng Hàn: 사당역, Hanja: 舍堂驛) là ga tàu điện ngầm và ga trung chuyênằm trên Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2 và Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 4 trải dài
**Ga sân bay Quốc tế Gimpo** (Tiếng Hàn: 김포공항역, Tiếng Anh: Gimpo International Airport station, Hanja: 金浦空港驛) là ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5, Tàu điện ngầm Seoul
là một nhà ga nằm ở Shibuya, Tokyo, Nhật Bản, liên kết vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), , , và . Với 2,4 triệu lượt khách mỗi ngày
là một ga đường sắt rất quan trọng nằm ở quận Shinjuku và Shibuya, Tokyo, Nhật Bản. Đây là một hệ thống ga phức hợp kết nối nhiều tuyến tàu giữa các quận đặc biệt
nhỏ|phải|Gà luộc chặt miếng kiểu Trung Quốc với [[cải thìa]] **Gà luộc** là một món ăn phổ biến từ thịt gà bằng phương pháp luộc chín, gà được bỏ vào nồi và được nấu chín
thumb|[[Ga Đài Bắc 101–Trung tâm Thương mại Thế giới, Đường sắt đô thị Đài Bắc]] thumb|Tất cả nhà ga trên [[Tuyến 14 Métro Paris|Tuyến 14 của Métro Paris đều được trang bị cửa chắn sân
**Ga Wangsimni** (Tiếng Hàn: 왕십리역, Hanja:往十里驛) hay **Ga Wangsimni (Văn phòng Seongdong-gu)** (Tiếng Hàn: 왕십리(성동구청)역, Hanja:往十里(城東區廳)驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeongwon và Tuyến Bundang ở Wangsimni-ro, Seongdong-gu, Seoul. Đòng thời cũng là ga
nhỏ|phải|Gà rán kiểu Ấn Độ nhỏ|phải|Một món gà chiên nước mắm nhỏ|phải|Gà rán nhỏ|phải|Gà tẩm ướp nhỏ|phải|Gà rô ti nhỏ|phải|Gà nướng muối ớt **Danh sách món gà** rất đa dạng và phong phú. Gà là
nhỏ|phải|Một đàn gà kiến đang được nuôi ở [[Huế]] **Gà kiến** hay **gà Bình Định** là một giống gà nội địa của Việt Nam được nuôi ở một số tỉnh miền Trung Việt Nam. Giống
nhỏ|phải|Một con gà chọi Mã Lai (mã mái) **Gà chọi Mã Lai** (Malay) là một giống gà chọi có nguồn gốc lâu đời ở bán đảo Malaysia nhưng được phát triển và biết đến ở
nhỏ|phải|Một con gà Sumatra trống **Gà Sumatra** (tiếng Indonesia: _Ayam gallak_) là một giống gà có nguồn gốc từ đảo Sumatra của Indonesia, chúng xuất hiện vào năm 1847 và được du nhập sang châu
nhỏ|phải|Một con gà lông đen **Gà lông đen**, hay còn gọi là **gà đen**, **ô kê** hoặc **hắc kê**, là các cá thể gà có màu lông chủ yếu màu đen tuyền và hơi có
nhỏ|phải|Giống gà cú có thể phân biệt giới tính khi sinh ra **Xác định giới tính ở gà** (Chick sexing) là phương pháp để xem xét, xác định giới tính trống mái ở gà con
nhỏ|phải|Một con gà xám bạc **Màu lông gà** là các màu sắc của lông biểu hiện ra bên ngoài của các giống gà. Các giống gà có màu lông rất đa dạng và được chọn
**Gà Satsumadori** (tiếng Nhật: 薩摩雞) là một giống gà có nguồn gốc từ tỉnh Kagoshima thuộc Nhật Bản, chúng lấy tên từ Satsuma là tên gọi cũ của tỉnh Kagoshima. Chúng là một giống gà
nhỏ|phải|Gà chọi Philippines **Gà chọi Philippines** (tên địa phương là _Ayam Asli Filipina_), còn gọi là **gà địa phương Philippines** hay **gà Phi**, là các giống gà bản địa của Philippines mà nổi bật là
nhỏ|phải|Thịt gà sao **Gà sao nhà** hay **gà sao nuôi** là giống gia cầm được thuần hóa từ gà sao trong tự nhiên. Gà Sao nhà bắt nguồn từ gà rừng, theo cách phân loại
nhỏ|phải|Một con gà tre râu Bỉ (biến thể vạn hoa)mái **Gà tre râu Bỉ** (Barbu d'Uccle) hay còn gọi là **gà tre râu dúc** (d'Uccle) là một giống gà có nguồn gốc từ Bỉ, chúng
**Gà cúng** hay còn gọi là _gà hiến tế_, _gà hiến sinh_, gà tế là các con gà, thường là gà trống dùng để hiến tế (cúng) cho ơn trên, thượng đế, các vị thánh,