Giáp Hải (1517 - 1586), sau đổi Giáp Trừng, là một nhà chính trị thời nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình dưới thời Mạc Mậu Hợp, và nổi bật trong dân chúng với những đóng góp cho vương triều trong gian đoạn khó khăn của thời kì chiến tranh Lê - Mạc.
Xuất thân
Giáp Hải tên hiệu là Tiết Trai, người làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang. Nguyên quê cha ông ở làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Lúc bé mồ côi cha và nghèo, ở làng mẹ là làng Công Luận, huyện Tế Giang. Một hôm Giáp Hải chơi ở bến sông, có người lái buôn quê làng Dĩnh Kế bỏ xuống thuyền đem về nuôi làm con, đón thầy dạy học cho, việc học chóng tấn tới.
Sự nghiệp
Năm 1538, đời vua Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải 21 tuổi, ông đỗ thứ nhất Tiến sĩ nhất giáp khoa Mậu Tuất, sau đổi tên là Trừng. Theo Phan Huy Chú nhận xét, do nhờ văn chương thi đỗ mà làm quan, bây giờ ai cũng tôn trọng. Bấy giờ ông thường ra ải Nam Quan bàn việc, ứng đáp tinh nhanh, người Minh gọi là Giáp Tuyên Phủ mà không gọi tên.
Năm sau Giáp Hải được lệnh giữ việc 6 bộ, kiêm chức Đại học sĩ Đông các, coi việc tòa Kinh diên, gia phong tước Sách quận công.
Năm 1566, nhà Mạc sai Giáp Hải lúc ấy đang giữ chức Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ- Kế Khê bá và Đông các hiệu thư Phạm Duy Quyết lên đầu địa giới Lạng Sơn đón tiếp sứ thần Lê Quang Bí về nước. Quang Bí phụng mệnh đi sứ năm Gia Tĩnh thứ 27, bị nhà Minh giữ lại 18 năm, đến nay trở về.
Bấy giờ chính sách nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biến luôn xuất hiện. Giáp Hải ngại mình quá được đầy đủ, mấy lần xin từ chức nhưng không được. Gặp bão lớn, ông lại dâng sớ khuyên răn vua, Mậu Hợp yên ủi, vời ông vào Kinh làm việc tại tiều, thăng Thái bảo dự việc triều chính. Giáp Hải mấy lần xin về hưu, Mậu Hợp quyến luyến không nghe. Lại mấy lần Giáp Hải dâng sớ, lời lẽ khẩn thiết, bất đắc dĩ Mậu Hợp phải cho, năm ấy ông 68 tuổi.
Mạc Mậu Hợp ban cho ông lá cờ thêu và câu đối:
Trạng đầu, tể tướng đẩu nam tuấn,
Quốc lão, đế sư thiên hạ tôn
Nghĩa là: đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh cao như ngôi sao Đẩu của trời Nam; đã quốc lão, lại thầy của vua, được cả nước tôn trọng.''
Ông mất năm 69 tuổi. (1586). Sau 1 năm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời
Tác phẩm
Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, phần Văn tịch chí, liệt kê sách Loại hiến chương của nước Việt, viết rằng Giáp Hải viết sách Ứng đáp bang giao, gồm 10 quyển.
Thông tin khác
Ngày 16 tháng 8 năm 1998, một phát hiện quan trọng có liên quan đến Giáp Hải đã được phát lộ, trong khi tiến hành làm đường giao thông nông thôn nhân dân Thôn Cốc ( Trưởng Thôn Hà Văn Duy) xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang đã phát hiện ra tấm bia đá hộp hay còn được gọi là sách đá: Tiên Khảo Thái Bảo Giáp phu quân mộ chí, khắc năm Cảnh Lịch thứ 3 (năm 1549), căn cứ vào nội dung văn tự Hán – Nôm khắc trên tấm bia này cho biết rõ về nguồn gốc quê hương dòng họ Giáp ở Dĩnh Kế. Từ đó mới có cơ sở đính chính lại những điều mà các tác giả và sử viết trước đây còn tồn nghi.
Theo nội dung tấm bia trên được biết cụ nội của Giáp Hải là Giáp Thuận Trung, gặp loạn nhà Minh, nhà ở phía Nam thành Xương Giang, vì không theo sự sai khiến của phu dịch của nhà Minh, lãnh cư ở xã Như Thiết Thượng, huyện Yên Dũng, rồi làm mục trưởng hương ấy, khi chết an táng tại đó. Ông nội của Giáp Hải là Giáp Bảo Phúc trở lại quê cũ lập nghiệp lấy bà họ Ngô năm nhâm dần niên hiệu Hồng Đức thứ 13 (1482) sinh ra Giáp Hà là phụ thân của Giáp Hải. Ngoài 3 người con trai (Giáp Hảng, Giáp Trưng, Giáp Thanh), Giáp Hà còn sinh được một trưởng nữ gả cho Quốc tử giám xá sinh Trần Địch Triết. Như vậy, Giáp Hải không phải là con nuôi mà là con đẻ đích thực của dòng họ Giáp cha là cụ Giáp Hà, huý Đức Hưng, hiệu Khánh Sơn sinh ở Dĩnh Kế.
Nhận định
Khi soạn sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Bậc phò tá tài đức, Phan Huy Chú viết về 4 người thời Lý, 10 người thời Trần, 18 người thời Lê và một người duy nhất thời Mạc là Giáp Hải. Phan Huy Chú cho rằng:thời Mạc có Trạng nguyên Giáp Hải công danh rõ rệt.
Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp ban cho ông lá cờ thêu và câu đối:
Trạng đầu, tể tướng đẩu nam tuấn,
Quốc lão, đế sư thiên hạ tôn
Nghĩa là:đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh cao như ngôi sao Đẩu của trời Nam; đã quốc lão, lại đế sư, được cả nước tôn trọng.''
Lại có câu:
Từ bút văn tôn danh lưỡng quốc
Hoa triền thọ diẹu huyễn tam thai
Nghĩa là:văn chương tài giỏi vang hai nước; tuổi như sao thọ sáng chiếu trong hàng tam công.
Giai thoại
Trạng nguyên Giáp Hải đã được dân gian mang danh quê hương là Trạng Kế. Nơi ông vẫn ngồi học thủa nhỏ cùng với hòn đá, giếng nước đều gắn với ông bằng những tên gọi thân thuộc. Hòn đá ông Trạng, núi ông Trạng, giếng ông Trạng…Và khi ông qua đời, nhân dân đã an táng, xây lăng quan Trạng, lập đền thời quan Trạng. Nhân dân và Nho sĩ hai huyện Phượng Nhãn – Bảo Lộc của phủ Lạng Giang xưa lập văn chỉ, khắc bia các bậc tiên hiền, của quê hương trong đó có Trạng nguyên Giáp Hải và con ông là tiến sĩ Giáp Lễ. Đặc biệt nhân dân Dĩnh Kế đã lập đền thờ quan Trạng, tổ chức tế lễ rước sách uy nghiêm trong ngày hội làng và rằm tháng 3 âm lịch hàng năm.
Sau khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, nhà Minh sai Mao Bá Ôn đem quân sang "hỏi tội". Mao Bá Ôn dừng quân nơi cửa ải, đưa ra bài thơ này gửi quan quân nhà Mạc với ý ví người An Nam như những thân bèo không đoàn kết. Bài thơ này đã được trạng nguyên Giáp Hải của Đại Việt hoạ lại với lời lẽ cứng rắn.
'''Bài thơ chữ Hán của Mao Bá Ôn
'''
萍詩
隨田逐水冒秧鍼,
到處看來實不深。
空有根苗空有葉,
敢生枝節敢生心?
徒知聚處寧知散,
但識浮時那識沉。
大抵中天風惡氣,
掃歸湖海便難尋。
'''Bản phiên âm Hán-Việt:
'''
Tuỳ điền trục thủy mạo ương châm,
Đáo xứ khan lai thực bất thâm.
Không hữu căn miêu không hữu diệp,
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm?
Đồ tri tụ xứ ninh tri tán,
Đãn thức phù thì ná thức trầm?
Đại để trung thiên phong ác khí,
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.
Dịch nghĩa:
Dọc theo ruộng nước bám như châm,
Rễ bám vào đâu cũng chẳng thêm.
Vờ có căn nguyên, vờ có lẽ,
Dám chi sạch tiết, dám chi tâm?
Tụ rồi đã chắc chi khi tán,
Nổi đó nào hay đến lúc chìm?
Gặp trận trời cho cơn gió lốc,
Quét tan hồ bể khó mà tìm.
Dịch thơ:
'''Thơ vịnh bèo (Người dịch: Hoà thượng Trí Thủ)
'''
Cao sâu theo nước mọc im lìm
Nông nỗi xưa nay vốn khó dìm
Ngọn gốc đã trơ không lá lảu
Cỗi cành sao lại cả gan tim?
Coi thường tản mát khi thường tụ
Biết lúc lênh đênh chả biết chìm
Ví gặp tung trời cơn bão táp
Cuốn theo về biển khó đâu tìm!
Khi nhận được bài thơ thì Trạng Giáp Hải đã có bài hoạ như sau:
Cẩm lân mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thủy diện
Khảng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lãng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng nghiểu lý
Thái Công vô kế hạ câu tầm
'''Tạm dịch:
Sin sít hoa thêu cản mũi khâu
Mấy tầng gốc rễ vẫn chen nhau
Ganh cùng mây bạc trên làn sóng
Đâu để vầng hồng lọt đáy sâu
Nước vỗ, vỗ sao cho phá được
Gió to, to mấy có chìm đâu
Biết bao rồng cá nằm trong đó
Cụ Lã đừng hòng thả lưỡi câu!
Năm 1998, một nhóm công nhân đã phát hiện một hòm đá hình chữ nhật tại xã Dĩnh Trì. Hòm đá gồm hai phiến đá nhẵn chồng khít lên nhau. Phần áp mặt vào nhau của hai phiến đá có văn bản viết bằng chữ Nho. Sau khi dịch nghĩa, người ta biết đây là di văn của Giáp Hải, được ông soạn kỹ càng rồi yểm xuống mộ Khánh Sơn tiên sinh (cha đẻ Giáp Hải) vào năm Tân Dậu, 1549. Một điều thú vị là phần nắp đậy có những dòng chữ viết thêm cho biết ngôi mộ đã được chuyển từ núi Ngò về xã Dĩnh Trì hiện nay như thế nào. Như vậy, việc tranh cãi ông là người Bắc Giang hay Hà Nội (ngày nay) có lẽ sẽ đi đến hồi kết.
Tài liệu tham khảo
Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà xuất bản giáo dục, 2007
Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1998
Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội. 1988
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáp Hải** (1517 - 1586), sau đổi **Giáp Trừng**, là một nhà chính trị thời nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình dưới thời Mạc
**Bắc Hải** (tiếng Hán: 北海, bính âm Běihǎi), **Bakhoi** theo tiếng Quảng Đông, là một thành phố (địa cấp thị) thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Bắc Hải có nghĩa
**Đền Hai Bà Trưng**, còn gọi là **Đền Đồng Nhân**, là một ngôi đền thờ Hai Bà Trưng tọa lạc tại 12 Đồng Nhân, phường Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Hiện nay, đền
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Queen Elizabeth**_ bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm thế hệ siêu-dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của lớp được đặt nhằm tôn vinh Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất
**Lớp thiết giáp hạm _Dunkerque**_ là một lớp thiết giáp hạm "nhanh" gồm hai chiếc được Hải quân Pháp chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không lớn bằng những thiết giáp hạm
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**_Roma_** là một thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Được đặt theo tên của thành phố Roma, đây là thiết giáp hạm thứ ba của lớp _Littorio_ và là một
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
**Lớp thiết giáp hạm _Montana**_ là một lớp thiết giáp hạm được vạch kế hoạch cho Hải quân Hoa Kỳ nhằm nối tiếp lớp _Iowa_; sẽ chậm hơn nhưng lớn hơn, có vỏ giáp tốt
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III**_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều
**Lớp thiết giáp hạm _Courbet**_ là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Pháp trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm bốn chiếc: _Courbet_, _France_, _Jean Bart_
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Pennsylvania**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ bảy được thiết kế trên căn bản mở rộng lớp lớp
**Lớp thiết giáp hạm _New York**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ năm được thiết kế, và đã phục vụ trong cả
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**Lớp thiết giáp hạm Amagi** là một lớp thiết kế thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong những năm 1920. Chúng được thiết kế để củng cố "Hạm đội tám-tám"
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải** là một khu kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. ## Địa lý Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải có vị trí địa lý: *Phía
**Lớp thiết giáp hạm _Fuji**_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**Lớp thiết giáp hạm _Nevada**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thiết giáp hạm thứ sáu được thiết kế. Chúng là lớp thiết