✨Nevada (lớp thiết giáp hạm)
Lớp thiết giáp hạm _Nevada_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thiết giáp hạm thứ sáu được thiết kế. Chúng là lớp thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên được trang bị tháp pháo ba nòng; cũng là lớp đầu tiên được giới thiệu sơ đồ vỏ giáp "Tất cả hoặc không có gì", trong đó việc bảo vệ những khu vực sống còn được tối ưu hóa chống lại pháo cỡ lớn, để những phần còn lại hầu như không được bảo vệ. Lớp Nevada cũng tiêu biểu cho việc sử dụng thuần túy dầu đốt làm nhiên liệu. Phối hợp lại, cho đến lúc đó lớp Nevada là một sự tiến triển đáng kể trong công việc thiết kế thiết giáp hạm.
Thiết kế
nhỏ|trái|Sơ đồ lớp Nevada trước khi tái cấu trúc năm [[1927]] nhỏ|trái|Sơ đồ nhận diện chiếc Nevada của Cục Tình báo Hải quân sau khi nó được sửa chữa và hiện đại hóa năm [[1942]] Lớp Nevada đánh dấu "một bước tiến bộ khác trong thiết kế thiết giáp hạm tại Mỹ". Khi Nevada được chế tạo, báo The New York Times nhấn mạnh rằng chiếc thiết giáp hạm mới là "[thiết giáp hạm] lớn nhất từng nổi"
Những chiếc thiết giáp hạm mới trong lớp Nevada là hai chiếc đầu tiên tại Mỹ trang bị tháp pháo ba nòng, một ống khói duy nhất, súng phòng không, Đặc biệt, việc sử dụng dầu đốt cho phép lớp tàu mới có một lợi thế về động lực so với những chiếc đốt than. Lớp Nevada có trọng lượng vỏ giáp nặng hơn 40% so với lớp New York. một khái niệm về thiết kế cho phép Hải quân có được một hàng tàu chiến đồng nhất (rất quan trọng, vì nó cho phép vạch kế hoạch cơ động cả hàng tàu chiến thay vì phải tách ra "cánh nhanh" và "cánh chậm"). Khái niệm "Tiêu chuẩn" bao gồm hỏa lực tầm xa, tốc độ trung bình 39 km/h (21 knot), bán kính lượn vòng hẹp khoảng 640 m (700 yard) và cải thiện việc kiểm soát hư hỏng.
Vỏ giáp
Bộ vỏ giáp của lớp Nevada được thiết kế bởi sự tập hợp các chọn lựa khác nhau thay vì một sơ đồ tổng quát. Rất sớm từ khi thiết kế lớp New York, những nghi vấn đã được đặt ra về sơ đồ vỏ giáp phức tạp trước đây, bao gồm một sàn giáp chính đủ dày để kích nổ quả đạn pháo xuyên thép, bên trên một sàn bọc thép mỏng hơn để giữ lại các mảnh đạn. Giờ đây, vì tầm bắn tối đa đòi hỏi khẩu pháo phải được nâng lên góc tối đa, hỏa lực xuyên thủng từ đạn pháo hạng nặng đã được tính đến trong việc bảo vệ sàn tàu chính và nóc các tháp pháo, nhận thức rằng đai giáp sẽ xác lập "rìa trong của vùng miễn nhiễm" và sàn tàu là rìa ngoài. Kết hợp mọi thứ lại, đây là cuộc cách mạng "tất cả hoặc không có gì" trong thiết kế. Việc thử nghiệm tác xạ trên chiếc tàu mục tiêu USS San Marcos (nguyên là chiếc USS Texas (1892)) xác nhận nhu cầu cần có lớp vỏ giáp tốt hơn. Các mặt trước của tháp pháo có độ dày lên đến 460 mm (18 inch).
Vũ khí
Ban đầu lớp Nevada được trang bị mười khẩu hải pháo 356 mm (14 inch)/45 caliber, 21 khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch)/51 caliber Mark I và hai ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch). Chúng bị giới hạn ở góc nâng 15 độ, cho phép có tầm xa tối đa 19,2 km (21.000 yard) Dầu đốt có hiệu suất nhiệt tốt hơn, cung cấp một tầm xa lớn hơn tính theo mỗi tấn nhiên liệu tiêu thụ. Việc chuyển đổi từ than sang dầu còn cho phép sử dụng nồi hơi nhỏ hơn, tiết kiếm chỗ và trọng lượng trong lớp Nevada. Oklahoma tiêu biểu cho việc áp dụng sau cùng động cơ kiểu cũ. Loại động cơ ba buồng bành trướng đặt dọc (VTE) khiến cho nó kém tin cậy và rung động nhiều hơn so với con tàu chị em, khiến Hải quân từng có nguyện vọng muốn thay động cơ mới cho con tàu.
Lịch sử hoạt động
Lớp Nevada đã hoạt động tích cực tại Đại Tây Dương trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được bố trí đến khu vực chiến sự châu Âu vào năm 1918 để giúp bảo vệ các con đường tiếp liệu Đồng Minh. Chúng tiếp tục phục vụ sau "Cuộc chiến lớn" cho dù vào đầu những năm 1920 chúng là những chiếc cũ nhất trong các đơn vị của Hạm đội Thiết giáp hạm. Cả hai được hiện đại hóa rộng rãi trong những năm 1927 - 1929, có được góc nâng lớn hơn trên các khẩu pháo hạng nặng mới Mark 10/45, hệ thống kiểm soát hỏa lực hiện đại đặt trên các cột buồm ba chân, và hai máy phóng dành cho thủy phi cơ trinh sát tuần tiễu. Các khẩu pháo chống tàu khu trục 127 mm (5 inch)/51 caliber được chuyển đến các vị trí khô hơn trên cấu trúc thượng tầng, và một khẩu đội phòng không 127 mm (5 inch)/25 caliber được bổ sung. Việc bảo vệ chống lại đạn pháo, bom và ngư lôi được cải thiện, làm gia tăng chiều rộng mạn thuyền lên gần 32,9 m (108 ft) và trọng lượng rẽ nước khi hoạt động là 34.000 tấn. Các turbine hơi nước của Nevada bị hao mòn sớm, nên được thay thế bởi những turbine hộp số tốt hơn nhiều từ thiết giáp hạm North Dakota được cho ngừng hoạt động vào lúc đó; Oklahoma không được thay động cơ, nhưng cả hai chiếc đều được trang bị nồi hơi áp lực trung bình hiện đại.
Trong trận Trân Châu Cảng, Oklahoma bị đánh chìm và Nevada phải tự mắc cạn với hư hại nhẹ (nhưng bị hư hại nặng thêm do một đám cháy lớn tại pháp pháo số hai 2 một ngày sau đó) để tránh làm tắc lấi ra vào cảng. Kinh nghiệm của Nevada cho thấy hệ thống phòng thủ ngư lôi rất tốt, nhưng độ kín nước tại các sàn phía trên của các chiếc tàu chiến cũ chưa thỏa đáng. Oklahoma bị đánh trúng 9 ngư lôi trong vòng vài phút, lật úp và chìm, là một tổn thất hoàn toàn; nhưng Nevada được trục vớt và được hiện đại hóa một lần nữa trong năm 1942, thay thế dàn pháo hạng hai cũ bằng các khẩu đội pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng nòng đôi mới cùng nhiều pháo phòng không 40 mm và 20 mm. Cấu trúc thượng tầng của nó được chế tạo lại toàn bộ theo dáng hiện đại, với cầu tàu chỉ huy thu nhỏ lại. Nó phục vụ cho cả chiến trường châu Âu và Thái Bình Dương, bắn pháo hỗ trợ cho các chiến dịch đổ bộ. Nevada, cùng với Texas và Arkansas, đã nả pháo xuống các vị trí khẩu đội Đức trong ngày D tại Normandy. Vai trò cuối cùng của Nevada là mục tiêu cho các cuộc thử nghiện vũ khí nguyên tử và quy ước từ năm 1946 đến năm 1948.