✨Wyoming (lớp thiết giáp hạm)

Wyoming (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Wyoming_ là một lớp thiết giáp hạm thuộc thế hệ dreadnought, là loạt hai chiếc thứ tư được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ, bao gồm hai chiếc WyomingArkansas. Vào lúc thiết kế cặp này, chưa có chiếc nào trong thiết kế của lớp trước đó chạy thử ngoài biển. Trong khi khá lớn hơn so với lớp tàu tiền nhiệm, chúng giữ lại những đặc tính chung cho tất cả các thiết giáp hạm Mỹ cho đến giai đoạn đó với các tháp pháo chính dọc theo trục giữa, chỗ trống thấp, tầm hoạt động xa và vỏ giáp hông rất dày.

Cả hai chiếc trong lớp đều đã hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai. Trong Thế Chiến I, chúng được phân về Hải đội Thiết giáp hạm 6 của Hạm đội Grand Anh Quốc, và có những hoạt động hạn chế tại Bắc Hải trong những năm 1917 - 1918. Cả WyomingArkansas đều được tái cấu trúc vào giữa những năm 1920 giống như tất cả các thiết giáp hạm Mỹ trong thời kỳ này. Wyoming được rút về làm một tàu huấn luyện sau năm 1931, trong khi Arkansas đảm trách vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải trong Thế Chiến II. Nó còn tiến hành bắn pháo bờ biển hỗ trợ cho cuộc đổ bộ Normandy cũng như tại miền Nam nước Pháp trong chiến dịch Dragoon, cả hai diễn ra vào giữa năm 1944. Sau đó Arkansas được chuyển sang Mặt trận Thái Bình Dương, nơi nó bắn phá Iwo Jima và Okinawa trong các cuộc tấn công đổ bộ lên các hòn đảo này. Cả hai chiếc đều bị xóa đăng bạ sau khi chiến tranh kết thúc; Wyoming bị tháo dỡ vào năm 1947, trong khi Arkansas được sử dụng làm mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử trong chiến dịch Crossroads vào năm 1946.

Thiết kế

Kích cỡ và vũ khí

Những yêu cầu của lớp tàu này xuất phát từ những yêu cầu rất căn bản được nêu ra trong Hội nghị Newport. Thiết kế này đánh dấu sự kết thúc của Ủy ban Chế tạo và vai trò lớn mạnh của Ủy ban Tướng lĩnh trong việc thiết kế tàu chiến Mỹ. Tháp pháo giữa tàu trên lớp tàu này và cả trên lớp New York đều gặp những trục trặc; tháp pháo và hầm đạn đều được bố trí ngay bên cạnh các nồi hơi, và các ống dẫn hơi nước áp suất cao nằm ngay bên cạnh các hầm đạn. Điều này đưa đến một sự chênh lệch nhiệt độ đáng kể trong thuốc phóng đưa đến việc phân tán khá lớn sơ đồ điểm đạn rơi ở hai lớp tàu này. Các nỗ lực nhằm làm mát các hầm đạn 305 mm (12 inch) giữa tàu chỉ mang lại những kết quả hạn chế. Ủy ban Tướng lĩnh ước lượng rằng tầm hiệu quả chiến trận của dàn pháo chính ở trong khoảng 7.300 đến 7.800 m (8.000 – 8.500 yard). Dàn pháo hạng hai một lần nữa lại được bố trí trên một sàn thấp bên dưới sàn chính; điều này đã giới hạn khả năng sử dụng chúng vì 1/3 trong số chúng trở thành vô dụng do quá ướt khi di chuyển tốc độ cao.

Vỏ giáp bảo vệ

Những giới hạn về kiểm soát hỏa lực một lần nữa giải thích sự khiếm khuyết vỏ giáp sàn tàu thích hợp tiếp tục trong thiết kế của lớp này. Toàn bộ sơ đồ vỏ giáp ngang được thiết kế để ngăn chặn đạn pháo bắn đến ở góc rất nông; với ý tưởng làm cho quả đạn pháo xuyên thép phát nổ trên vỏ giáp mỏng của sàn tàu trong khi các mảnh của chúng được ngăn chặn bởi lớp giáp còn mỏng hơn nữa bằng thép tấm STS 25 mm (1 inch) ở lớp sàn tàu bên dưới. Vấn đề hỏa lực xuyên thủng đã không thể khắc phục cho đến khi nguyên tắc vỏ giáp "tất cả hoặc không có gì" được áp dụng cho lớp Nevada, cách hai lớp sau lớp Wyoming. Đai giáp chính được giữ ở mức 279 mm (11 inch) giảm dần còn 229 mm (9 inch) đủ để chống lại hải pháo 305 mm (12 inch) vào thời đó.

Thiết kế động cơ

Wyoming là lớp thiết giáp hạm Mỹ cuối cùng được trang bị loại động cơ turbine hơi nước dẫn động trực tiếp. Sau này, các kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc, turbine hộp số hoặc turbine điện đều chứng tỏ hiệu suất sử dụng nhiên liệu tốt hơn.

Nâng cấp

USS Wyoming Việc hiện đại hóa được bắt đầu vào năm 1925 và hoàn thành vào năm 1927. Việc này bao gồm bổ sung một đai giáp chống ngư lôi làm cho chúng có mạn thuyền rộng hơn, trọng lượng rẽ nước lớn hơn và một lớp giáp sàn tàu dày hơn. Các nồi hơi đốt dầu được bổ sung cùng một ống khói gộp cũng như giảm bớt còn một cột buồm dạng lồng duy nhất. Cả hai chiếc đều được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực mới; một số khẩu đội pháo hạng hai 127 mm (5 inch) được dời chỗ lên cấu trúc thượng tầng. Arkansas được sử dụng làm tàu huấn luyện tác xạ; trong khi Wyoming được tháo dỡ toàn bộ số pháo 305 mm (12 inch), và nhiều khẩu đội 127 mm (5 inch) đa dụng được bổ sung để hoạt động như một nền tảng huấn luyện pháo phòng không đang rất cần thiết.

Lịch sử hoạt động

USS Arkansas Bất chấp tên được đặt cho lớp, Arkansas đi trước Wyoming cả trong việc chế tạo lẫn sử dụng, cho dù cả hai chiếc đều được đưa vào hoạt động trong tháng 12 năm 1912. Do lớp tàu này được trang bị các nồi hơi đốt than, cả WyomingArkansas đều có thể hoạt động cùng Hạm đội Grand Anh Quốc tại khu vực khan hiếm dầu đốt Bắc Hải trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trước đó chúng hoạt động trong Hạm đội Đại Tây Dương, và sau chiến tranh là ở cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Cả hai chiếc đều được hiện đại hóa trong những năm 1925 - 1927, tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, và giống như nhiều thiết giáp hạm cũ khác, chúng được cho ngừng hoạt động ngay sau chiến tranh kế thúc. Wyoming đánh dấu sự kết thúc của lớp tàu sau 35 năm phục vụ khi được cho ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 8 năm 1947 để tháo dỡ; trước đó Arkansas đã bị đánh chìm trong cuộc thử nghiệm bom nguyên tử tại Thái Bình Dương.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Wyoming**_ là một lớp thiết giáp hạm thuộc thế hệ dreadnought, là loạt hai chiếc thứ tư được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ, bao gồm hai chiếc _Wyoming_ và
**Lớp thiết giáp hạm _New York**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ năm được thiết kế, và đã phục vụ trong cả
**USS _Wyoming_ (BB-32)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong số hai chiếc thuộc lớp _Wyoming_ vốn bao gồm cả chiếc _Arkansas_. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
Một tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Wyoming**_ theo tên thung lũng Wyoming ở phía Đông Pennsylvania dọc theo sông Susquehanna; ba chiếc khác được đặt tên này nhằm
**USS _Tuscaloosa_ (CA-37)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, tên của nó được đặt theo thành phố Tuscaloosa thuộc tiểu bang Alabama. Trong Chiến tranh
**Theodore Roosevelt III** (13 tháng 9 năm 1887 – 12 tháng 7 năm 1944), thường được biết đến là **Theodore** **Roosevelt Jr.**, **Ted** hoặc **Teddy**, là một chính trị gia, nhà kinh doanh và sĩ quan
USS Arkansas Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Arkansas**_ nhằm vinh danh tiểu bang Arkansas. * USS _Arkansas_ (1863) là một tàu hơi nước chân vịt, nguyên mang
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**South Carolina** () là một tiểu bang thuộc phía đông nam của Hoa Kỳ. Phía bắc giáp North Carolina, phía đông nam giáp Đại Tây Dương và phía tây nam giáp Georgia dọc theo sông