Tống Thị Toại (? - 1654), sử nhà Nguyễn chép là Tống Thị, là một nữ quý tộc dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam, vợ của quan trấn thủ Quảng Nam Tôn Thất Kỳ. Câu chuyện tình ái giữa bà với người em chồng là Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan về sau trở thành một bê bối lớn trong gia tộc Nguyễn Phúc.
Tiểu sử
Các sử sách dưới triều Nguyễn đều chỉ gọi bà là Tống thị mà không cho biết tên thật. Theo bài viết của Cổng thông tin điện tử huyện Duy Xuyên nói về di tích lăng mộ của chồng bà là ông hoàng Kỳ, thì bà được gọi với cái tên là Tống Thị Toại.
Theo sách Đại Nam thực lục, Tống Thị Toại là con gái của Cai cơ Tống Phước Thông, một vị quan phục vụ dưới trướng chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Bà được gả cho Công tử cả của Chúa là Khánh quận công Tôn Thất Kỳ (tức Nguyễn Phúc Kỳ, về sau do lệnh của vua Minh Mạng nên tất cả Hoàng thân không phải con cháu trực hệ của vua Gia Long đều bị đổi sang họ Tôn Thất), và sinh được ba người con trai, thứ tự là Tôn Thất Nhuệ, Tôn Thất Xuân và Tôn Thất Tài.
Ngày 22 tháng 7 năm 1631, Tôn Thất Kỳ qua đời tại Quảng Nam. Nếu như ông ta còn sống lâu hơn thì rất có khả năng sẽ trở thành người kế vị ngôi Chúa với tư cách công tử cả, nhưng vì ông chết trước cha mình nên vị trí nối ngôi từ đó thuộc về Công tử thứ 2 là Nhân Lộc hầu Nguyễn Phúc Lan. Tháng 10 cùng năm, cha của Tống thị là Tống Phước Thông cảm thấy thất vọng vì bỏ mất cơ hội làm ông nhạc của nhà Chúa, bèn dẫn gia quyến lẻn ra cửa Eo trốn về bắc đầu hàng chúa Trịnh, riêng Tống thị vẫn ở lại Đàng Trong.
Năm 1635, Chúa Sãi mất, Nhân Lộc hầu là Lan lên nối ngôi, tức là Chúa Thượng. Mùa xuân tháng 2 năm 1639, Tống thị được vào chầu nhà Chúa. Do bà có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, đã nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng góa bụa đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi ngọc bách hoa vào dâng Chúa. Chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương thơm ngát xúc động lòng yêu, từ đó cho bà được tự do ra vào cung phủ chung chăn gối, từ đó xảy ra quan hệ bất chính giữa chị dâu và em chồng. Bấy giờ trong triều các thị thần nhiều người can ngăn, nhưng Chúa đều bỏ ngoài tai. Về việc này, một nhân vật sống gần thời ấy là Nguyễn Khoa Chiêm đã mô tả trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của mình
:Tống thị tuy là phận gái nhưng có chí lớn, nhan sắc hoa thẹn, nguyệt mờ, dáng điệu nhạn rơi, cá lặn, tính tình lẳng lơ, mây sớm gió chiều, thân Hồ nhớ Việt, nói năng khéo léo khoái hoạt, cợt gió đùa trăng, phong thái chẳng kém gì Ly Cơ, Tiểu Muội. Tống thị thường ra vào phủ chúa, ý muốn tư tình với Thượng vương, nhưng vương không chú ý đến. Một hôm Tống thị ngồi nhà xâu một chuỗi hoa như vòng ngọc liên châu rất đẹp, sai người đem đến dâng cho chúa. Thượng vương cầm lên ngửi thấy mùi hương bốc thơm ngát, tự nhiên xúc động lòng yêu. Từ đó Thượng vương đem lòng say mê Tống thị. Năm Kỷ Mão niên hiệu Dương Hòa thứ năm (1639), tháng hai, Tống thị thân vào phủ chúa chầu hầu. Tống thị sụp lậy dưới thềm thưa trình, về tình cảnh góa bụa thảm thiết. Trong khi nói cũng yểu điệu ôm ngực, cau mày ai trông thấy cũng xiêu lòng. Thế là chúa Thượng nổi tình riêng, liền mời Tống thị vào nội thất vui thú mây mưa. Từ đó Thượng vương hết mực sủng ái Tống thị, không đoái đến các cung nhân khác, ngày ngày chỉ cặp kè với Tống thị, không lúc nào rời, chẳng khác nào Đổng Trác với nàng Điêu Thuyền, Ngô vương Phù Sai với nàng Tây Tử. Tống thị trình bẩm việc gì, chúa liền nghe theo. Các bậc đại thần thân cận nhiều lần can gián nhưng chúa đều không nghe.
Chúa Thượng ban đầu vốn là người anh minh, trí dũng, nhưng kể từ sau khi có Tống thị, Chúa thay đổi tâm tính, hay nóng giận thất thường, triều thần ai nấy chỉ liếc mắt nhìn nhau không dám hé răng. Dân chúng kẻ nào đem chuyện phao đồn chúa sai bắt chém ngay, đem bêu đầu ở chợ, không cho tra xét hỏi han gì cả. Điều này khiến cho dân chúng Thuận - Quảng đều lo âu, sợ hãi. Chúa lại bắt đầu bỏ bê việc nước, sa vào yến tiệc vui chơi, xây dựng cung thất công dịch không ngớt. Năm 1640, có Nội tán Văn Hiên hầu tên là Phạm can rằng:
:Thần nghe bực vương giả dùng người hiền làm cột, lấy đức tốt làm thành, ung dung rủ áo chắp tay mà yên vững như núi Thái. Xưa kia Nghiêu Thuấn dùng nhà cỏ tranh không xén, xà mộc không đẽo, mà chư hầu cảm nhận, bốn rợ mến đức, hà tất phải nhà cao cửa rộng mới yêu thích đâu? Nay họ Trịnh trên thì ép vua Lê, dưới thì hiếp công khanh, vốn có ý nhòm ngó ta. Chúa nên lo lắng siêng năng, xem xét thời cơ, mở mang bờ cõi, nếu không nghĩ điều ấy mà chỉ chăm việc thổ mộc, thì thần chưa biết như thế có nên không.
Chúa nghe ra tỉnh ngộ, bèn ra lệnh đình bãi các việc xây dựng.
Ỷ vào sự sủng ái của Chúa, Tống thị ra sức vơ vét, ăn hối lộ đến nỗi của cải chất nhiều như núi. Em trai thứ 4 của Chúa là Chưởng cơ Tôn Thất Trung mưu việc trừ khử Tống thị. Tống thị sợ, bèn nhân việc cha mình là Tống Phước Thông đang được Thanh vương Trịnh Tráng tin dùng, bà bèn bí mật gởi thư, lại đem một chuỗi bách hoa bằng trân châu, sai người tới biếu chúa Trịnh để xin giúp quân đánh Đàng Trong, bà còn hứa đem gia tài giúp vào việc quân. Chúa Trịnh nhận thư, liền bàn việc xâm lấn miền Nam, đó là khơi mào cho cuộc chiến Trịnh - Nguyễn lần thứ 4 năm 1648. Tuy nhiên quân Nguyễn dưới sự thống lĩnh của Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần đã đẩy lui được cuộc xâm lấn của họ Trịnh.
Cùng năm đó, Chúa Thượng mất, Thế tử Tần lên nối ngôi, tức là Chúa Hiền. Tống thị lúc này quay ra lấy lòng Tôn Thất Trung, người từng mưu giết mình trước đây. Hai người tư thông với nhau, và Tống thị nhân đấy khuyên Trung phản. Trung bèn bí mật kết bè đảng rắp mưu làm loạn. Đến năm 1654, việc này bị thuộc hạ của Trung là Thắng Bố tố cáo lên nhà Chúa. Chúa Hiền sai bắt Trung và Tống thị, Trung thú nhận hết mọi tội lỗi. Chúa không nỡ giết, cho giam Trung xuống ngục, tước tư cách tôn thất rồi ông ta chết trong ngục. Lại hạ lệnh giết Tống thị lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân. Không rõ Tống thị thọ được bao nhiêu tuổi.
Ba người con trai của bà với Tôn Thất Kỳ về sau đều làm quan đến chức Chưởng doanh.
Đánh giá
Sử gia Nguyễn Khắc Thuần bàn về Tống thị và câu chuyện tình ái của bà như sau
:Những gia đình có giáo dục đàng hoàng chưa hẳn đã có được những đứa con tử tế, nhưng, những đứa con tử tế bao giờ cũng là sản phẩm của một quá trình giáo dục đàng hoàng. Như Tống Phước Thông, nếp nghĩ ấy, tâm địa ấy đòi con ông đàng hoàng thì có khác gì đòi loài cọp con phải nhân từ? Một lần Tống Thị đẩy đưa với em chồng, thôi thì cứ cho là khát khao chưa dứt, lầm lỡ dẫu nặng cũng có thể tạm bỏ qua. Thêm một lần quan hệ bất chính với Tôn Thất Trung, thôi thì cứ cho là vì sự sống còn của riêng thân mà dùng vũ khí tạo hóa ban cho để thoát nạn. Đến như hai lần làm chuyện phản nghịch, thì Tống Thị hỡi, ngàn năm không ai hiểu cho bà. Nỗi lòng Tống Thị, khó nói thay! Một người đàn bà góa bụa, từng sinh hạ những ba người con trai, thế mà từ chúa Nguyễn Phúc Lan tới võ tướng cao cấp là Tôn Thất Trung phải xiêu lòng, cả đến chúa Trịnh xa tít ở Đàng Ngoài cũng phải tin lời mà xuất chinh vất vả. Khiếp thay!
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Thị Toại** (? - 1654), sử nhà Nguyễn chép là **Tống Thị**, là một nữ quý tộc dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam, vợ của quan trấn thủ
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Tống Văn công** (chữ Hán: 宋文公, ?-589 TCN, trị vì 611 TCN-589 TCN), tên thật là **Tử Bão Cách** (子鮑革) hay **Tử Bão** (子鮑), là vị vua thứ 24 của nước Tống - chư hầu
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Kim Ai Tông ** (chữ Hán: 金哀宗, bính âm: **_Jin Aizong_**, 25 tháng 9 năm 1198 - 9 tháng 2 năm 1234), tên Hán là **Hoàn Nhan Thủ Lễ** (完顏守禮) hay **Hoàn Nhan Thủ Tự**
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Sơn Tây** là một thị xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Thị xã nguyên là thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây. Đây là thị xã trực thuộc thành phố đầu
**Lang Gia Vương thị** (琅琊王氏), là thế tộc họ Vương tại quận Lang Gia (琅邪郡). Lang Gia Vương thị hưng khởi lúc thời Hán, thời Đông Tấn phát triển thành gia tộc cao nhất trong
**Khâm Từ Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽慈皇后; 1053 hoặc 1058 - 1089), còn được gọi là **Trần Mỹ nhân** (陳美人) hoặc **Trần Quý nghi** (陳貴儀), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Thì Phổ** (時溥, ? - 9 tháng 5 năm 893), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, giữ chức Cảm Hóa tiết độ sứ. Cuối cùng, ông chiến bại trước bộ tướng Bàng
**Tống Cung công** hay **Tống Cộng công** (chữ Hán: 宋共公, ?-576 TCN, trị vì 588 TCN-576 TCN), tên thật là **Tử Hà** (子瑕), là vị vua thứ 25 của nước Tống - chư hầu nhà
**Tống Chiêu công** (chữ Hán: 宋昭公; trị vì: 619 TCN-611 TCN)), tên thật là **Tử Xữ Cữu** (子杵臼), là vị vua thứ 23 của nước Tống - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Hàn Toại** (chữ Hán: 韩遂; ?–215), tự **Văn Ước** (文約), là một lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở vùng Lương châu vào đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một
**Chu Cao Toại** (朱高燧; 19 tháng 1, 1383 - 5 tháng 10, 1431), là Hoàng tử thứ ba của Minh Thành Tổ và Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu Từ thị. ## Cuộc đời **Chu Cao
**Tổng khởi nghĩa Hà Nội năm 1945** là sự kiện nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính phủ Đế quốc
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Trần Quốc Toại** (chữ Hán: 陳國遂) hay **Trần Toại** (1254?-1277?), hiệu **Sầm Lâu**, được phong tước _Uy Văn vương_; là danh sĩ, là cháu họ và cũng là con rể vua Trần Thái Tông trong
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Phan Kế Toại** (1892–1973) là một chính khách Việt Nam. Ông làm quan cuối thời nhà Nguyễn, nguyên là Khâm sai Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng sau Cách mạng tháng Tám
**Dương Diên Chiêu** (chữ Hán: 杨延昭; 958 - 1014), còn được gọi là **Dương Lục Lang** (楊六郎), là một nhà quân sự đầu thời Bắc Tống. Ông là con trai của danh tướng Dương Nghiệp
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
**Triệu Nguyên Tá** (chữ Hán: 赵元佐; 965 - 1027), tên thật **Triệu Đức Sùng** (赵德崇), tự **Duy Cát** (惟吉), Trưởng tử của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, mẹ là Nguyên Đức Hoàng hậu Lý
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Trương Tông Vũ** (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh
**Tống Duy Tân** (chữ Hán: 宋維新; 1837 - 1892) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 - 1892) trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Tống Duy Tân** là
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
**Kim Tuyên Tông** (chữ Hán: 金宣宗, 18 tháng 4 năm 1163 - 14 tháng 1 năm 1224), tên thật là **Hoàn Nhan Ngô Đô Bổ** (完顏吾睹補), **Hoàn Nhan Tùng Gia** (完颜從嘉), **Hoàn Nhan Tuân** (完颜珣),
**Cao Ly Tuyên Tông** (Hangul: 고려 선종, chữ Hán: 高麗 宣宗; 9 tháng 10 năm 1049 – 17 tháng 6 năm 1094, trị vì 1083 – 1094) là quốc vương thứ 13 của Cao Ly.
**Thi Nại Am** (tiếng Trung: 施耐庵; bính âm: _Shi Nai'an_; 1296 - 1372), tự là **Triều Thụy** (肇瑞), là một tác giả văn học người Trung Quốc, nổi tiếng với tác phẩm Thủy Hử, một
thumb|Tranh vẽ [[Trần Anh Tông.]] **Quan gia** (chữ Hán: 官家; bính âm: _guān jiā_) là một tôn xưng, biệt xưng của các Hoàng đế Trung Hoa và Việt Nam. Tại Trung Quốc, danh xưng "Quan
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái