Phan Kế Toại (1892–1973) là một chính khách Việt Nam. Ông làm quan cuối thời nhà Nguyễn, nguyên là Khâm sai Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng sau Cách mạng tháng Tám đã tham gia Việt Minh và trở thành Phó Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong bốn nhiệm kỳ liên tục từ tháng 9 năm 1955 đến khi qua đời vào tháng 6 năm 1973.
Thân thế
Ông quê tại làng Mông Phụ, tổng Cam Thịnh, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội). Năm sinh ông nhiều tài liệu ghi chép khác nhau, tuy nhiên theo tài liệu hồi ký và tộc phả do họa sĩ Phan Kế An, con trai ông, cung cấp, thì ông sinh ngày 5 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, tức ngày 2 tháng 2 năm 1892. Ông là con thứ ba của cử nhân Phan Kế Tiến, Tuần phủ tỉnh Phúc Yên.
Xuất thân sinh ra trong một gia đình quan lại, từ nhỏ, ông được cha kèm cặp Nho học sau đó được đưa ra Hà Nội học phổ thông (Tây học). Năm 1903, ông có dịp gặp gỡ và quen biết với một số cậu ấm con quan khác như Bùi Kỷ, Võ Liêm Sơn.
Là một quan chức trong chính quyền bảo hộ, cha ông đã thu xếp cho ông vào học trường Hậu bổ (trường hành chính quốc gia) để chuẩn bị bước đường làm quan sau này. Những năm 1911–1914, ông được chính quyền bảo hộ của Pháp trao học bổng du học tại Trường Hành chính Thuộc địa (l'Ecole Coloniale, nay là Trường Hành chính Quốc gia Pháp) tại Paris. Khi mới sang Pháp, ông đã gặp lại người bạn cũ Nguyễn Sinh Cung, bấy giờ mang tên Nguyễn Tất Thành đang làm nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville của hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie des Chargeurs Réunis), cũng đang xin được vào học tại Trường Hành chính Thuộc địa nhưng không được chấp thuận. Đầu tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành sang Hoa Kỳ, bắt đầu con đường khám phá thế giới của riêng mình.
Sự nghiệp làm quan
Năm 1914, ông trở về nước và được bổ nhiệm làm quan với chức Tri huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Con đường quan lộ hanh thông, làm Tri huyện, Tri phủ, Thương tá, Bố chính, Tuần phủ rồi Tổng đốc của tỉnh Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Kiến An, Quảng Yên, Nam Định, Lạng Sơn, Phúc Yên, Bắc Ninh, Thái Bình. Ở đâu, ông cũng được biết tiếng là liêm khiết và có năng lực an dân.
Ông cũng rất quan tâm đến đời sống dân làng quê hương. Chính ông là người mang nghề làm nón, làm áo tơi lá về làng Mông Phụ, mở lớp dạy ngay tại Từ đường họ Phan. Tuy nhiên, việc mở nghề cho dân làng không thành do hoàn cảnh chiến tranh nên có người kẻ độc mồm bảo: "Cụ đi làm quan với thiên hạ, lại đem cái nghề ăn mày về làng...".
Năm 1941, ông được chính quyền bảo hộ Pháp bổ nhiệm làm Tổng đốc Thái Bình. Bấy giờ, người Nhật bắt đầu thâm nhập Đông Dương. Cũng như nhiều trí thức bấy giờ, ông có quan điểm hợp tác với người Nhật để tìm cách cởi bỏ sự thống trị của người Pháp. Đồng thời, ông cũng ngầm ủng hộ con trai mình là Phan Kế An hoạt động trong phong trào Việt Minh. Năm 1944, lúc đang là Tổng đốc Thái Bình, ông đã ngầm ủng hộ Việt Minh bằng cách trao một tín phiếu 500 đồng bạc Đông Dương qua ông Nguyễn Công Liệu là một cán bộ Việt Minh.
Tháng 3 năm 1945, ông từ nhiệm chức vụ Tổng đốc Thái Bình, khi Nhật đảo chính Pháp và dựng lên Chính phủ Đế quốc Việt Nam. Ông được Hoàng đế Bảo Đại cử giữ chức Khâm sai Bắc Bộ, một chức vụ toàn quyền thay mặt hoàng đế tại Bắc Bộ về danh nghĩa. Ông được bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban Giám đốc chính trị miền Bắc gồm các thành viên: Đặng Thai Mai, Nguyễn Tường Long, Trần Văn Lai, do bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ làm Chủ tịch.
Ủng hộ Việt Minh
Tuy nhiên, ông nhanh chóng nhận thấy người Nhật chỉ lợi dụng người Việt như một thuộc địa chẳng kém người Pháp. Khi quân Nhật ép ông phải biểu dụ dân chúng nhổ lúa trồng đay và nộp thóc cho Nhật, ông đã cáo ốm tỏ thái độ bất hợp tác. Ông còn ngầm ủng hộ con trai Phan Kế An và nhóm bạn bè đang học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương hoạt động cho Việt Minh - giấu súng, đạn trên trần nhà mình ở Đường Lâm.
Tháng 7 năm 1945, ông xin từ chức Khâm sai nhưng chưa được triều đình chấp nhận, nên vẫn phải tiếp tục tạm quyền. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngay ngày hôm sau, hai cán bộ Việt Minh là Nguyễn Khang và Lê Trọng Nghĩa vào Phủ Khâm sai tại Hà nội để thuyết phục ông hợp tác. Tuy nhiên, ngày 17 tháng 8, triều đình có quyết định cho ông từ chức, cử bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ lên thay. Dù vậy, nhận định thế mạnh của Việt Minh bấy giờ là không thể ngăn cản được, để hạn chế đổ máu, lúc 22 giờ ngày 17 tháng 8, trước khi rời Bắc Bộ Phủ, ông đã dặn dò cho viên Chính quản Lại (sở) cùng một bảo an binh tên là Nguyễn Sỹ Là, phải: "Tuyệt đối không được nổ súng và phải mở cửa ngay khi quân cách mạng tiến công".
Rời khỏi Phủ Khâm sai, ông về tư gia ở phố Hàng Bột. Ông được đón lên Việt Bắc và được bổ nhiệm làm quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ vào tháng 11 năm 1947, thay cho cụ Huỳnh Thúc Kháng vừa qua đời lúc trước đó 7 tháng.
Ngày 19 tháng 8 năm 1948, được cử làm thành viên của Hội đồng Quốc phòng Tối cao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa được thành lập do đích thân Chủ tịch Chính phủ làm Chủ tịch Hội đồng.
Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, ông cùng các thành viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở về tiếp quản miền Bắc. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mười ngày sau đó, ngày 20 tháng 9, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam. Ông tiếp tục được tái bổ nhiệm chức vụ này trong Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa II.
Ngày 30 tháng 4 năm 1963, ông được thôi nhiệm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam. Người thay thế ông trong chức vụ này là Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm.
Ông tiếp tục giữ chức vụ Phó Thủ tướng thêm 2 nhiệm kỳ nữa cho đến khi qua đời ngày 26 tháng 6 năm 1973.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh vì sự nghiệp đóng góp của mình.
Gia đình
Ông có 2 đời vợ. Bà vợ đầu là bà Nguyễn Thị Nhân Lý - con gái một vị hương chính ở Hà Tĩnh, xuất thân là nữ sinh Đồng Khánh. Bà đã sinh cho ông Phan Kế Toại 7 người con, nhưng không may sớm mất một người. Bà qua đời khoảng năm 1933-1934.
Sau đó ông tục huyền với bà Nguyễn Thị Mão (1903-1992), người làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Bà Mão xuất thân là nữ sinh Đồng Khánh, nữ sinh trường Albert Sarraut, tốt nghiệp khoá 1924-1927 trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, là bạn thân của bà vợ đầu, là nữ giáo viên đầu tiên của Hà Nội, biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga và là chị gái của các ông Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Hưởng. Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thời đó tốt nghiệp khoa Toán trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương và dạy toán nhiều năm tại trường nữ sinh trung học Đồng Khánh. Bà sinh hạ cho ông thêm 4 người con.
Các con ông có những người hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Phan Kế An (sinh 1923), họa sĩ, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001);
Phan Kế Ninh, công tác trong ngành Hàng không;
Phan Thị Mỹ, Cử nhân Văn học, vợ Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doãn;
Phan Kế Bảo, công tác trong ngành Điện ảnh;
Phan Kế Khoan, công tác trong ngành Giáo dục;
Phan Kế Hoành: nhà phê bình nghệ thuật;
Phan Kế Phúc, Phó giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội;
Phan Kế Lộc: Giáo sư, Tiến sĩ sinh học, giảng viên Trường đại học Tổng hợp Hà Nội;
Phan Lệ Thủy, Phó giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Trường Đại học Dược khoa;
Phan Kế Bình, Cử nhân Sinh học, cán bộ Công ty Công viên Hà Nội.
Một trong số những người cháu nội của ông là bà Phan Vũ Diễm Hằng, nữ sinh Việt Nam đầu tiên đoạt được huy chương ở một kỳ Olympic Toán học Quốc tế vào năm 1975.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phan Kế Toại** (1892–1973) là một chính khách Việt Nam. Ông làm quan cuối thời nhà Nguyễn, nguyên là Khâm sai Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng sau Cách mạng tháng Tám
**Phan Kế An** (20 tháng 3 năm 1923 – 21 tháng 1 năm 2018) là một họa sĩ Việt Nam. Ông nổi tiếng là người đầu tiên được ký họa chân dung Hồ Chí Minh
**Phan** (chữ Hán: 潘) là một họ tại Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 반, Hanja: 潘, phiên âm theo Romaja quốc ngữ là **Ban**). Phan là họ phổ biến thứ 6 với
**Giáo phận Thanh Hóa** (tiếng Latinh: _Dioecesis de Thanh Hoa_) là một giáo phận Công giáo tại Miền Trung Việt Nam. Giáo phận này có diện tích 11.168 km², tương ứng với toàn bộ tỉnh Thanh
**Đỗ Kế Giai** (1929 – 2016), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường
**Hàn Toại** (chữ Hán: 韩遂; ?–215), tự **Văn Ước** (文約), là một lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở vùng Lương châu vào đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một
**Tổng khởi nghĩa Hà Nội năm 1945** là sự kiện nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính phủ Đế quốc
**Quốc hội Việt Nam khóa I** (nhiệm kì 1946-1960) là khóa Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội khóa I kéo dài 14
**Tống Thị Toại** (? - 1654), sử nhà Nguyễn chép là **Tống Thị**, là một nữ quý tộc dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam, vợ của quan trấn thủ
**Trần Quốc Toại** (chữ Hán: 陳國遂) hay **Trần Toại** (1254?-1277?), hiệu **Sầm Lâu**, được phong tước _Uy Văn vương_; là danh sĩ, là cháu họ và cũng là con rể vua Trần Thái Tông trong
**Cách mạng tháng Tám** còn gọi là **Tổng khởi nghĩa tháng Tám** là tên gọi ngành sử học chính thống tại Việt Nam hiện nay dùng để chỉ việc phong trào Việt Minh tiến hành
**Phó Thủ tướng Chính phủ** là một chức vụ trong Chính phủ Việt Nam, được quy định ngay từ Hiến pháp 1946. Kể từ năm 1981, theo Hiến pháp 1980, chức vụ này được gọi
**Đa Minh Toại** hay **Đa Minh Trần Văn Toại** là một ngư phủ theo đạo Công giáo, tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào
**Maha Sajai** (chữ Hán: 槃羅茶遂 / **Bàn-la Trà-toại**, ? - 1474) là quân chủ cuối cùng của liên minh Champa. ## Tiểu sử Chiến tranh Việt-Chiêm năm 1471 kết thúc với việc liên minh Champa
**Nguyễn Kế Sài** (Chữ Hán: 阮柯赛), tước **Sài quận công**, là danh tướng của triều Lê trong lịch sử Việt Nam. Vì có công trong việc trung hưng triều Lê nên Nguyễn Kế Sài được
**Trần Đình Long** (1 tháng 3 năm 1904 - 1945) là nhà hoạt động cách mạng trong phong trào cộng sản Việt Nam, là cố vấn của Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội trong Cách
**Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam**, được lập ra theo Điều 89 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**
**Sơn Tây** là một thị xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Thị xã nguyên là thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây. Đây là thị xã trực thuộc thành phố đầu
**Viện Văn học (Việt Nam)** (tên giao dịch quốc tế: _(Vietnam) Institute of Literature_, viết tắt là IOL) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
**Phan Khắc Khoan** (5 tháng 6 năm 1916 – 13 tháng 12 năm 1998), bút hiệu: _Chàng Chương, Hồng Chương_; là nhà giáo, nhà viết kịch và là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
**Hồ Sĩ Tạo** (1841-1907) hoặc **Hồ Sỹ Tạo**, tự là **Tiểu Khê**, là một nho sĩ Nghệ An thế kỷ 19. Ông quê làng Lai Nhã, xã Thái Nhã, tổng Võ Liệt, huyện Thanh Chương,
Hiến pháp năm 1946 **Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946** là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Quốc hội khóa I thông qua
**Hà Đông** là một quận nội thành cũ của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hà Đông nằm ở phía tây nam nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Phêrô Maria Khuất Văn Tạo** Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục chính tòa tiên khởi Giáo phận Hải Phòng từ năm 1960 đến năm 1977. Trước đó, ông từng đảm nhận vai trò
**Đường Lâm** là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sông Hồng (bờ phía Nam), cạnh đường Quốc lộ 32,
Ngày **2 tháng 2** là ngày thứ 33 trong lịch Gregory. Còn 332 ngày trong năm (333 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *932 – Quốc vương nước Mân Vương Diên Quân mệnh con
**12 tháng 6** là ngày thứ 163 (164 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 202 ngày trong năm. ## Sự kiện *618 – Lý Uyên buộc Tùy Cung Đế Dương Hựu phải thiện vị
**Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội** là cơ quan cũ của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: lao động, tiền lương; việc
**Võ Liêm Sơn** (1888 - 1949), hiệu **Ngạc Am**; là quan triều Nguyễn, nhà giáo, nhà văn, và là một nhà cách mạng Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm Mậu Tý (1888) tại
**Bộ trưởng Bộ Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** gọi tắt là **Bộ trưởng Bộ Công an**, là thành viên chính phủ Việt Nam đứng đầu Bộ Công an. Bộ
**Vũ Đình Hòe** (1 tháng 6 năm 1912 – 29 tháng 1 năm 2011) là luật sư, nhà báo, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) trong
**Chính phủ Liên hiệp Quốc dân** được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, nhằm thay thế cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Chính
nhỏ|phải|Phủ Khâm sai năm 1945, tức Dinh Thống sứ Bắc Kỳ (1917-1945) **Thống sứ Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: **_Résident supérieur du Tonkin_**) là viên chức người Pháp đứng đầu xứ bảo hộ Bắc Kỳ dưới
**Nguyễn Ngọc Doãn** (sinh 17 tháng 6 năm 1914 - mất 1987) là một sĩ quan cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Trung
**Lê Giản**, tên thật là **Tô Dĩ** (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1911, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên - mất ngày 20 tháng 10 năm 2003,
Ngày **26 tháng 6** là ngày thứ 177 (178 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 188 ngày trong năm. ## Sự kiện *363 – Hoàng đế La Mã Julianus bị sát hại trong lúc
**Quốc hội Việt Nam khóa II** (nhiệm kỳ 1960–1964) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là Quốc hội đầu tiên hoạt động trong thời kỳ
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Nguyễn Khang** (1919-1976) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1945, người đầu tiên quyết định và trực tiếp
phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Phúc Yên năm 1909 **Phúc Yên** là một tỉnh cũ của Việt Nam. Tỉnh Phúc Yên ra đời theo nghị định ngày 18 tháng 2 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương,
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
Đây là danh sách tất cả các huyện (trong đó có cả các huyện tự trị, các kỳ và các kỳ tự trị) cùng với các thành phố cấp huyện () và các quận ()
**Loạn Chu Cao Hú** (), còn được gọi là **Loạn Cao Hú** () hoặc **Biến cố Định Nan** (), là một sự kiện xảy ra vào năm đầu niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh (1426),
**Chu Thao** (chữ Hán: 朱滔, bính âm: Zhu Tao, 746 - 785), thụy hiệu **Thông Nghĩa vương** (通義王), là quyền Tiết độ sứ Lư Long dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban