✨Lê Giản

Lê Giản

Lê Giản, tên thật là Tô Dĩ (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1911, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên - mất ngày 20 tháng 10 năm 2003, tại Hà Nội), là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là người đứng đầu ngành Công an Việt Nam từ năm 1946 cho đến năm 1952, tương đương với Bộ trưởng Bộ Công an ngày nay. Ngoài ra, ông còn từng giữ các chức vụ Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an (1955 – 1958), Thẩm phán rồi Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (1958 – 1979). Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2011 vì những đóng góp của mình đối với đất nước.

Thân thế

Theo tài liệu của dòng họ Tô, Lê Giản và các nhà cách mạng Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu là anh em họ, cùng là hậu duệ 4 đời của Đốc học Nam Định Tô Ngọc Nữu.

Thân phụ ông, Tô Chuẩn, làm nghề thầy đồ, dạy chữ Nho và chữ Quốc ngữ cho con em các gia đình khá giả trong làng. Mẹ ông làm buôn bán nhỏ, nuôi sống gia đình. Từ nhỏ, ông được thân phụ dạy chữ Nho, chữ Quốc ngữ; đến năm ngoài 10 tuổi, ông cùng người anh em họ Tô Hiệu theo học các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng ở trường làng.

Năm 11 tuổi, mẹ mất, ông được gia đình gửi ra Hà Nội ở nhờ một người bà con buôn bán tơ lụa nuôi cho ăn học và giúp đỡ công việc vặt trong nhà. Ông lần lượt học tại các trường Hàng Vôi, Sinh Từ ở Hà Nội cho đến năm 1929, khi đã 18 tuổi, ông thôi học và đi làm thư ký giúp việc cho một nhà buôn Pháp ở Hàng Gai (Hà Nội).

Bước đầu tham gia hoạt động cách mạng

Khi đi học ở Hà Nội, ông sớm chịu ảnh hưởng của các thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đang hoạt động bí mật tại Bắc Kỳ. Ông tham gia vào tổ chức Học sinh đoàn và Xích vệ đoàn, những tổ chức ngoại vi của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, nhiều lần tham gia rải truyền đơn tại Hà Nội. Tháng 12 năm 1929, ông được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.

Tháng 6 năm 1930, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được Tô Chấn bố trí vào Sài Gòn cùng với Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu. Bấy giờ chính quyền thực dân tại Nam Kỳ thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng, ông bị mất liên lạc với tổ chức nên tham gia hoạt động cho Việt Nam Quốc dân Đảng một thời gian trước khi tổ chức này bị chia rẽ và tan rã.

Năm 1931, ông xin vào làm cho một chủ tàu biển chạy tuyến Sài Gòn – Hải Phòng – Hongkong – Singapore với ý định trốn đi Pháp, đi Liên Xô hoạt động. Tuy nhiên khi vào đến Hải Phòng thì ông bị chỉ điểm nên bị thực dân Pháp bắt giam. Tuy nhiên sau thời gian dài thẩm tra, do không có chứng cứ buộc tội nên ông được thả tự do.

Sau khi được tha, ông ở lại Hải Phòng, sau đó bắt liên lạc được với tổ chức và hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ, Hội Ánh sáng, Truyền bá quốc ngữ, Ái hữu tư thục... cho đến năm 1937. Thời gian này, ông nhiều lần làm việc với một lãnh đạo cũ của Việt Nam Quốc dân Đảng, nay hoạt động cho Đảng Cộng sản Đông Dương, Trần Huy Liệu, khởi đầu mối quan hệ thân tình giữa 2 người nhiều năm sau này.

Từ năm 1938 đến 1939, ông được giao nhiệm vụ phụ trách cơ quan giao thông liên lạc, ấn loát ở Hải Phòng, rồi công tác tại Thành ủy Hải Phòng. Trong thời gian này, ông nhiều lần bị mật thám Pháp bắt bớ, tra khảo, nhưng vì không có bằng chứng nên không buộc tội được.

Bị lưu đày và trở về Tổ quốc

Tuy nhiên, đến đầu năm 1940, do cơ sở bị lộ, ông được lệnh phải di chuyển khỏi Hải Phòng trong vòng 24 giờ. Nhưng do mất liên lạc, ông chưa kịp đào thoát thì bị chính quyền thực dân bắt giam. Ông bị kết án và bị đi lưu đày ở các nhà tù Bắc Mê Hà Giang (tháng 6 năm 1940), Sơn La (tháng 11 năm 1940) và sau đó bị đưa sang lưu đày ở Madagascar vào tháng 5 năm 1941.

Tháng 11 năm 1942, quân đội Anh chiếm lại được Madagascar từ tay chính quyền Vichy và trả tự do cho nhóm lưu đày. Ông cùng các đồng chí của mình tuyên bố nguyện vọng được tham gia chống phát xít cùng với quân Đồng Minh. Cơ quan tình báo Anh SOE tuyển mộ ông cùng 6 đồng chí nữa vào Lực lượng 136 (Force 136) và đưa sang Calcutta (Ấn Độ) huấn luyện về truyền tin, chuẩn bị tung về hoạt động ở Đông Dương, bấy giờ đang do quân Nhật kiểm soát. Ngoài Lê Giản, 6 người còn lại là Hoàng Đình Rong, Đoàn Ngọc Rê, Phan Bôi, Vũ Văn Địch, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Văn phòng.

Sau một thời gian huấn luyện, nhóm 7 người lần lượt được quân Đồng Minh thả dù vào Đông Dương thành nhiều đợt. Ông và Hoàng Đình Giong là toán đầu tiên được đưa nhảy dù vào Cao Bằng ngày 25 tháng 10 năm 1944. Toán thứ 2 gồm Phan Bôi và Đoàn Ngọc Rê, cũng đáp xuống Cao Bằng cuối tháng 11 năm 1944. Toán cuối cùng gồm Nguyễn Văn phòng, Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Văn Địch được thả vào gần Hà Nội vào tháng 5 năm 1945. Các nhóm có nhiệm vụ bắt liên lạc với các tổ chức chống phát xít, sau đó truyền thông tin về cho bộ chỉ huy quân Đồng Minh ở Côn Minh (Trung Quốc). Cả ba nhóm sau đó đều bắt liên lạc và hoạt động cho tổ chức Việt Minh cho đến ngày Nhật Bản đầu hàng.

Hoạt động trong ngành Công an

Sau khi đáp xuống Cao Bằng, ông cùng Hoàng Đình Rong lập tức bắt liên lạc với tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương và được giao nhiệm vụ tổ chức xây dựng căn cứ địa ở Việt Bắc cho đến tháng 9 năm 1945. Ông cũng chính là người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ xây dựng sân bay Lũng Cò vào tháng 7 năm 1945 để nhận tiếp tế từ các máy bay Mỹ thuộc OSS cho Việt Minh, cũng như phục vụ hoạt động di tản các phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi.

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 10 năm 1945, ông được Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều động về Hà Nội và cử giữ chức vụ Phó giám đốc Sở Liêm phóng Bắc bộ (Giám đốc là Chu Đình Xương). Ngày 21 tháng 2 năm 1946, các Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng trên toàn quốc hợp thành Việt Nam Công an vụ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội vụ. Ngày 22/2/1946 ông Nguyễn Dương được bổ nhiệm vào chức vụ Giám đốc Việt Nam Công an Vụ.

Ngày 18 tháng 4 năm 1946, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định 121-NV/NĐ, quy định tổ chức ngành Công an vụ thành 3 cấp. Theo đó, cấp trung ương gọi là Nha Công an Việt Nam, đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Tổng giám đốc Việt Nam công an vụ, đồng thời cũng quy định "giúp việc cho Tổng giám đốc Việt Nam công an vụ là một Phó giám đốc". Ngày 2 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng ký Nghị định số 129 NV/NĐ, cử ông vào chức vụ Phó Giám đốc Việt Nam Công an Vụ, phụ tá cho Giám đốc Công an Vụ Nguyễn Dương. Chỉ 37 ngày sau, ngày 8 tháng 6 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 100, chấp thuận cho ông Nguyễn Dương từ chức Giám đốc Việt Nam Công an Vụ và cử ông thay chức vụ này.

Trên cương vị đứng đầu ngành công an, ông đã hoạt động tích cực để bảo vệ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, đặc biệt với Vụ án Ôn Như Hầu nhiều tranh cãi. Khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra, ông được giao nhiệm vụ tổ chức ATK Định Hóa, bảo vệ các cơ quan trung ương đang đóng tại đây. Ông cũng đồng thời đảm nhiệm chức vụ Khu ủy viên An toàn khu. Ngày 5 tháng 4 năm 1948, Bộ trưởng Nội vụ Phan Kế Toại ký Nghị định số 291/NĐ tổ chức lại bộ máy ngành Công an. Theo đó Nha Công an Việt Nam đổi tên thành Nha Công an Trung ương. Tên gọi Việt Nam Công an vụ và tổ chức Sở Công an Kỳ không còn sử dụng. Chức vụ của ông thay đổi từ Giám đốc Việt Nam Công an Vụ thành Giám đốc Nha Công an Trung ương.

Tháng 9 năm 1952, ông Trần Quốc Hoàn được bổ nhiệm thay ông làm Giám đốc Nha Công an. Ông được điều động tham gia công tác cải cách ruộng đất. Đến đầu năm 1955, ông được điều động trở lại ngành Công an, giữ chức Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an kiêm Cục trưởng Cục Biên phòng (nay là Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam). Theo sắc lệnh 169-SL ngày 18 tháng 7 năm 1953 thì ông giữ chức vụ Giám đốc Vụ Trị an Hành chính, Bộ Công an (Phó Giám đốc là Nguyễn Tuấn Thúc).

Hoạt động trong ngành Tòa án

Tháng 5 năm 1958, ông được phân công làm Thẩm phán, Ủy viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tháng 9 năm 1960, ông được bổ nhiệm là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ông công tác trên cương vị này đến tháng 6 năm 1979 mới nghỉ hưu.

Những năm cuối đời

Sau khi nghỉ hưu năm 1979, ông sống cùng gia đình tại thành phố Hà Nội. Trong những năm cuối đời, ông viết nhiều bài báo và tham luận góp ý kiến với lãnh đạo nhà nước về các vấn đề chính trị, về dân chủ. Ông còn được suy cử làm Trưởng ban danh dự Ban liên lạc họ Tô Việt Nam đầu tiên.

Ông mất ngày 20 tháng 10 năm 2003, tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Vinh danh

  • Huân chương Hồ Chí Minh (truy tặng 2011)
  • Huân chương Kháng chiến hạng Nhất,
  • Huân chương Độc lập hạng Nhất
  • Huân chương Quân công hạng Nhất,

Đời tư

Con gái lớn của ông là Tô Hồng Thu, gả cho ông Phan Văn Xoàn, về sau là Thiếu tướng, Tư lệnh Cảnh vệ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Tranh vẽ Lê Giản **Lê Giản** (chữ Hán: 黎简, 1748 - 1799), tự **Giản Dân** (简民) , hiệu **Thạch Đỉnh** hay **Nhất Tiều** , người Thuận Đức, Quảng Đông, là nhà thơ đời Thanh trong
**Lê Giản**, tên thật là **Tô Dĩ** (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1911, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên - mất ngày 20 tháng 10 năm 2003,
**Lễ cày tịch điền** là một lễ hội trước đây tại một số quốc gia như Việt Nam và Trung Quốc, do nhà vua đích thân khai mạc. Ngày cử hành thường là một ngày
Patin 100% cotton ngắn tay áo cô gái múa ba lê giản dị cho Kid-Z* Cổ tròn* Mềm mại và thoải mái* Chất liệu: 100% Cotton* Giặt máy, sấy khô* Nhập khẩuThương hiệu: pattatVải chất
**Vũ Lệ Quyên** (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lệ Quyên**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội trong một gia
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là **đám cưới**, **lễ cưới** hoặc gọn hơn là **cưới**, gọi theo tiếng Hán-Việt là **giá thú**. Đối
Lễ tế cổ truyền tại đền Vua Đinh Tiên Hoàng Sân khấu lễ hội Hoa Lư tại quảng trường [[cố đô Hoa Lư]] Rồng vàng trong lễ hội Cờ Lau **Lễ hội Hoa Lư** là
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
thumb|alt=Cân thăng bằng trống|Hai đĩa cân thăng bằng này chứa không đồ vật, chia ra làm hai nhóm bằng nhau. Không là số chẵn. Nói theo cách khác, _tính chẵn lẻ_ của nó—đặc tính của
**_Án lệ 33/2020/AL_** về trường hợp cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là án lệ công bố thứ
**_Nghìn lẻ một đêm_** hay **_Ngàn lẻ một đêm_** (tiếng Ả Rập: _Kitāb 'Alf Layla wa-Layla_; tiếng Ba Tư: _Hazâr-o Yak Šab_) là bộ sưu tập các truyện dân gian Trung Đông và Nam Á
**Án lệ** là một hình thức của pháp luật, theo đó Nhà nước thừa nhận những bản án và quyết định giải quyết vụ việc của tòa án (trong các tập san **án lệ**) làm
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lễ hội tháng Mười** (tiếng Đức: _Oktoberfest,_ phát âm tiếng Đức: [ɔkˈtoːbɐˌfɛst]) được tổ chức trên khu đồng cỏ Theresienwiese tại München, Bayern, Đức là một trong những lễ hội lớn nhất thế giới trong
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Lê Đại Cương** (chữ Hán: 黎大綱, 1771 - 1847) còn gọi là **Lê Đại Cang**, tự **Thống Thiện**, hiệu **Kỳ Phong**. Ông là một vị quan nổi tiếng tài năng, trung chính thời Nguyễn, trải
nhỏ|phải|Bên trong một cửa hàng bán lẻ thực phẩm **Bán lẻ** là quá trình bán hàng hóa hoặc dịch vụ tiêu dùng cho khách hàng thông qua nhiều kênh phân phối để kiếm lợi nhuận.
**Lê Thị Lựu** (chữ Hán: 黎氏榴, 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu người Việt Nam. Bà được xem
phải|Cỗ kiệu rước bàn thờ thánh ở miền Bắc vào cuối [[thế kỷ 19]] thumb|Người dân tại đền thờ [[Trần Nhân Tông, Huế]] thumb|Cổng vào Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu, tại [[Dương Đông]] thumb|Bàn
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Công Vinh** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Anh được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng
**Lê Uy Mục** (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5 năm 1488 – 20 tháng 1 năm 1510), đôi khi còn gọi là **Mẫn Lệ công** (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê
nhỏ|thế=|381x381px|Lễ dâng hương Đức Quốc tổ Lạc Long Quân tại Đền Nội Bình Đà **Lễ hội Bình Đà** là một lễ hội truyền thống Việt Nam được tổ chức tại làng Bình Đà, đây là
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
**_Án lệ 20/2018/AL_** về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc là án lệ công bố thứ 20 thuộc lĩnh vực lao động của Tòa án nhân
**_Vô gian đạo_** (chữ Hán phồn thể: 無間道, chữ Hán giản thể: 无间道, bính âm: _Wú Jiān Dào_, tựa tiếng Anh: **Infernal Affairs**) là một bộ phim hình sự, trinh thám của điện ảnh Hồng
Lễ hội làng Vân Côn - Hoài Đức - Hà Nội Lễ hội đua bò 7 núi An Giang **Lễ hội Việt Nam** là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
**Tiền Lê Trung Tông** (chữ Hán: 前黎中宗 983 – 21 tháng 12 năm 1005), tên thật **Lê Long Việt** là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tiền Lê. Khi vua cha Lê Đại Hành
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
**Nguyễn Giản Thanh** (chữ Hán: 阮簡清; 1482–1552) là một trạng nguyên và chính trị gia người Việt Nam, thời Lê - Mạc. Ông đỗ trạng nguyên đời vua Lê Uy Mục và sau đó làm
Khai trống chầu trong lễ Xây chầu tại [[đình Mỹ Phước (Long Xuyên), bắt đầu lúc 3 giờ sáng ngày 8 tháng 6 năm 2014]] **Lễ Xây chầu** là một lễ trong lễ Kỳ yên
Một **hệ thống thời gian chuyển động được xác định trước (PMTS)** thường được sử dụng để thực hiện Chi phí phút lao động để thiết lập tỷ lệ mảnh, mức lương và/hoặc khuyến khích
**Lê Thanh Vân** (5 tháng 12 năm 1956 – 26 tháng 10 năm 2005), nổi tiếng với biệt danh **phù thủy xyanua**, **sát thủ xyanua**, **sát thủ độc dược**, là một kẻ giết người hàng
thumb|Mối nối giãn nở được áp dụng giữa các dầm của cầu [[Đường giao thông|đường bộ tránh gây phá hủy công trình khi vật liệu giãn nở.]] **Độ giãn nở nhiệt** là xu hướng vật
**Lễ hội lập tịch** là một lễ hội của đồng bào dân tộc Dao Họ, bản Khe Mụ, Sơn Hà, Bảo Thắng, Lào Cai. Giống như lễ thành đinh của các dân tộc trên thế
**Lễ hội nào cống** là lễ hội của các đồng bào dân tộc thiểu số H'Mông, Dao, Giáy. Xuất hiện từ thập kỷ 50 về trước, Tả Van có một ngôi miếu thờ 3 gian.
**Lễ hội làm chay** – hay _Lễ hội làm trai_ là một lễ hội tập tục địa phương hàng năm của nhân dân thị trấn Tầm Vu (Châu Thành, Long An) tổ chức _lễ hội
**Lễ cưới** (;) là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Lự ở Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar, Lào và Thái Lan. Em lấy vợ, anh em của vợ thuộc bàng hệ chéo hai,
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Giuse Lê Văn Ấn** (1916–1974) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông là giám mục tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc, quản lý giáo phận này từ năm 1965 cho đến khi
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**12 năm nô lệ** () là bộ phim dựa trên cuốn hồi ký cùng tên của Solomon Northup - một người Mỹ gốc Phi sinh ra tự do ở tiểu bang New York thế kỷ
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Gian lận hoàn trả** là hành động lừa gạt một cửa hàng bán lẻ thông qua quá trình hoàn trả. Có nhiều cách khác nhau để hàng vi tội phạm này được thực hiện, ví
**Án lệ 59/2023/AL** về lỗi cố ý gián tiếp trong vụ án "giết người" là án lệ thứ 59 thuộc lĩnh vực hình sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm