✨Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc

Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc

Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc () là bản hiến pháp thứ năm và hiện hành của Trung Hoa Dân Quốc (ROC), được Quốc Dân Đảng phê chuẩn trong kỳ họp Quốc hội Lập hiến ngày 25 tháng 12 năm 1946 tại Nam Kinh, và được thông qua vào ngày 25 tháng 12 năm 1947. Hiến pháp này, cùng với các Điều khoản Bổ sung, vẫn có hiệu lực tại các vùng lãnh thổ do Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát.

Mặc dù được thiết kế cho toàn bộ lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc khi mới thành lập, nhưng Hiến pháp này chưa bao giờ được thực thi rộng rãi và hiệu quả do Nội chiến Trung Quốc bùng nổ tại Trung Quốc đại lục vào thời điểm ban hành Hiến pháp. Quốc hội mới đắc cử đã sớm phê chuẩn Điều khoản Tạm thời chống lại Cuộc nổi dậy của Cộng sản vào ngày 10 tháng 5 năm 1948. Điều khoản Tạm thời này tượng trưng cho việc đất nước bước vào tình trạng khẩn cấp và trao cho chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân Đảng lãnh đạo những quyền lực ngoài hiến pháp.

Sau khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan vào ngày 7 tháng 12 năm 1949, Điều khoản Tạm thời cùng với thiết quân luật đã biến Đài Loan thành một nhà nước độc đảng độc tài bất chấp hiến pháp. Quá trình dân chủ hóa bắt đầu vào những năm 1980. Thiết quân luật được dỡ bỏ vào năm 1987, và Điều khoản Tạm thời bị bãi bỏ vào năm 1991. Các Điều khoản Bổ sung của Hiến pháp được thông qua để phản ánh thẩm quyền thực tế của chính phủ và việc thực hiện quan hệ xuyên eo biển. Các Điều khoản Bổ sung cũng đã thay đổi đáng kể cấu trúc chính phủ thành chế độ bán tổng thống với quốc hội đơn viện, tạo thành nền tảng cho nền dân chủ đa đảng ở Đài Loan.

Trong những năm 1990 và đầu những năm 2000, nguồn gốc của Hiến pháp từ Trung Quốc đại lục đã khiến những người ủng hộ Đài Loan độc lập thúc đẩy một hiến pháp mới cho Đài Loan. Tuy nhiên, những nỗ lực của chính quyền Đảng Dân chủ Tiến bộ nhằm tạo ra một hiến pháp mới trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống DPP Trần Thủy Biển đã thất bại, bởi vì Quốc dân đảng đối lập lúc bấy giờ kiểm soát Viện Lập pháp. Họ chỉ đồng ý cải cách Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, chứ không lập ra một hiến pháp mới. Lần sửa đổi gần đây nhất của Hiến pháp là vào năm 2005, với sự đồng thuận của cả Quốc Dân Đảng và DPP. Lần sửa đổi gần đây nhất đối với hiến pháp diễn ra vào năm 2004.

Lịch sử

Nguồn gốc

Trung Hoa thời phong kiến đã áp dụng hệ thống hiến pháp đan xen giữa sự phân bổ quyền lực theo chế độ phong kiến và chế độ chuyên chế tập trung. Ý tưởng về chế độ quân chủ lập hiến và hiến pháp thành văn đã trở nên có ảnh hưởng vào cuối thế kỷ 19, phần lớn được lấy cảm hứng trực tiếp từ tiền lệ của Hiến pháp Minh Trị ở Nhật Bản. Nỗ lực đầu tiên hướng tới chủ nghĩa hiến pháp ở Trung Quốc là trong cuộc Bách nhật duy tân diễn ra vào năm 1898 bởi Hoàng đế Quang Tự trẻ tuổi và những người ủng hộ có tư tưởng cải cách của ông, nhưng một cuộc đảo chính của những người theo chủ nghĩa quân chủ bảo thủ trung thành với Từ Hy Thái hậu đã chấm dứt nỗ lực này. Tuy nhiên, chính phe này cuối cùng đã áp dụng chính sách chuyển đổi sang chủ nghĩa hiến pháp. Tuy nhiên, văn kiện hiến pháp đầu tiên chỉ được công bố vào năm 1908, và văn kiện hiến pháp đầu tiên có hiệu lực pháp lý ("Mười chín Điều ước") đã không được thực hiện cho đến năm 1911, sau khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh vào năm sau đó.

Lịch sử thuộc địa

Sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, Hiệp ước Shimonoseki đã trao cho Nhật Bản toàn quyền chủ quyền đối với Đài Loan. Việc Trung Quốc nhượng lại Quận Đài Loan sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chế độ hiến pháp của hòn đảo này: Nhật Bản đã ban hành Hiến pháp Minh Trị sáu năm trước đó. Sau đó, chế độ thực dân của Nhật Bản đã gây ra những cuộc tranh luận gay gắt xung quanh việc áp dụng Hiến pháp Minh Trị đối với các chính quyền thuộc địa. Mặc dù chính quyền đầu sỏ Minh Trị tuyên bố rằng hiến pháp của họ sẽ không được áp dụng cho các thuộc địa, người dân Đài Loan khẳng định rằng việc họ nhập tịch với tư cách là công dân Nhật Bản đã đảm bảo các quyền được nêu trong Hiến pháp Minh Trị. Những cuộc tranh luận pháp lý này đã lên đến đỉnh điểm khi Đài Loan được trao quy chế pháp lý đặc biệt - Đài Loan trên danh nghĩa được quản lý theo hiến pháp. Tuy nhiên, các quyền hiến định liên tục bị quân đội và cảnh sát nhà nước Nhật Bản vi phạm. Các thể chế đại diện không được thiết lập theo hiến pháp. Tương tự như vậy, Thiên Hoàng Minh Trị đã trao phần lớn quyền hành pháp và lập pháp cho Toàn quyền Đài Loan, một nhà lãnh đạo quân sự được bổ nhiệm.

Những năm 1920 chứng kiến sự trỗi dậy của các phong trào chính trị bản địa khi các nhà hoạt động Đài Loan đấu tranh cho quyền tự chủ địa phương và các quyền tự do chính trị lớn hơn. Từ năm 1921 đến năm 1934, các nhà hoạt động chính trị đã cố gắng kiến nghị chính phủ Đế quốc Nhật Bản thành lập hội đồng nghị viện Đài Loan, nhưng không thành công. Ngược lại, sự thành lập của Liên minh Tự trị Địa phương Đài Loan () vào năm 1930 cuối cùng đã góp phần vào cuộc bầu cử hội đồng thành phố và thị trấn hạn chế vào năm 1935. Để nhượng bộ trước các phong trào chính trị này, chính quyền thực dân Nhật Bản đã thành lập các hội đồng để kết nối dư luận với nhà nước. Một nửa số thành viên hội đồng được bầu trực tiếp bởi cử tri trong khi nửa còn lại được chính phủ bổ nhiệm. Ngày 22 tháng 11 năm 1935 đánh dấu ngày quan trọng khi các cơ quan khu vực tự trị của Đài Loan tổ chức bầu cử. Chỉ những nam giới trưởng thành có địa vị kinh tế xã hội cao hơn mới đủ điều kiện tham gia.

Hiến pháp Minh Trị không phải là sự áp đặt hiến pháp cuối cùng của Đài Loan: Đài Loan sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp khác khi chính quyền Quốc dân đảng của Trung Quốc chạy sang Đài Loan trong Nội chiến Trung Quốc. Theo học giả luật pháp Đài Loan Yeh Jiunn-rong, những bản hiến pháp này sẽ để lại một di sản lâu dài cho chủ nghĩa hiến pháp của Đài Loan: chúng truyền cảm hứng cho quá trình bản địa hóa hiến pháp với các khuôn khổ khác biệt của chúng, đóng vai trò là nền tảng cho bản sắc hiến pháp cuối cùng của Đài Loan. Ngay cả ngày nay, tàn dư của chủ nghĩa thực dân Nhật Bản vẫn tồn tại trong hệ thống chính trị của Đài Loan. Cho đến năm 2005, Đài Loan vẫn duy trì hệ thống bỏ phiếu không thể chuyển nhượng (SNTV), một minh chứng cho Hiến pháp Minh Trị. Có nguồn gốc từ Nhật Bản, hệ thống SNTV trao cho cử tri một phiếu bầu trong các khu vực bầu cử nhiều thành viên. Không giống như bỏ phiếu có thể chuyển nhượng (STV), phiếu bầu không thể chuyển nhượng. Do đó, phiếu bầu dư thừa từ một ứng cử viên không thể được chuyển cho các ứng cử viên khác. Hệ thống bầu cử này tồn tại ở Nhật Bản cho đến năm 1994, nhưng vẫn tồn tại ở một hình thức hạn chế ở Đài Loan.

Những nỗ lực ban đầu của Hiến pháp Trung Hoa

Hiến pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc được soạn thảo vào tháng 3 năm 1912 và hình thành nên văn kiện chính phủ cơ bản của Trung Hoa Dân Quốc cho đến năm 1928. Hiến pháp này quy định một hệ thống nghị viện kiểu phương Tây do một tổng thống yếu kém đứng đầu. Tuy nhiên, hệ thống này nhanh chóng bị lật đổ khi Tống Giáo Nhân bị ám sát theo lệnh của Tổng thống Viên Thế Khải. Tống Giáo Nhân là lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, người sau này trở thành thủ tướng sau chiến thắng của đảng trong cuộc bầu cử năm 1912. Viên Thế Khải thường xuyên bất chấp quốc hội và nắm quyền độc tài. Sau khi ông qua đời vào năm 1916, Trung Quốc tan rã thành chế độ quân phiệt và Chính phủ Bắc Dương hoạt động theo Hiến pháp vẫn nằm trong tay các nhà lãnh đạo quân sự khác nhau.

Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch đã thiết lập quyền kiểm soát phần lớn Trung Quốc vào năm 1928. Chính phủ Quốc dân đảng đã ban hành Hiến pháp Lâm thời của Thời kỳ Bảo hộ Chính trị vào ngày 5 tháng 5 năm 1931. Theo văn bản này, chính phủ hoạt động theo chế độ độc đảng với quyền lực tối cao do Đại hội Đại biểu Quốc dân Đảng nắm giữ và quyền lực thực tế do Ủy ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng nắm giữ. Theo mô hình Lenin, Hiến pháp này cho phép một hệ thống ủy ban đảng - nhà nước làm nền tảng cho chính phủ. Quốc Dân Đảng dự định Hiến pháp này sẽ có hiệu lực cho đến khi đất nước được bình định và người dân được "giáo dục" đầy đủ để tham gia vào chính quyền dân chủ. File:RedactoresDeLaConstituciónChina1913TemploDelCielo.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:RedactoresDeLaConstituci%C3%B3nChina1913TemploDelCielo.jpg|Ủy ban soạn thảo Hiến pháp ban đầu của nước Trung Hoa Dân Quốcmới thành lập, được chụp ảnh trên bậc thềm của Đền Thiên Đàn ở Bắc Kinh, nơi bản dự thảo được hoàn thành vào năm 1913. File:憲法草案正文起草者.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:%E6%86%B2%E6%B3%95%E8%8D%89%E6%A1%88%E6%AD%A3%E6%96%87%E8%B5%B7%E8%8D%89%E8%80%85.jpg|Các thành viên Ủy ban soạn thảo dự thảo hiến pháp năm 1913

Quá trình soạn thảo

Hiến pháp lần đầu tiên được Quốc Dân Đảng (KMT) soạn thảo như một phần của giai đoạn phát triển quốc gia thứ ba (tức là dân chủ đại diện), thiết lập một nước cộng hòa tập trung với "năm nhánh chính quyền"" (五權分立). Hiến pháp này bắt nguồn từ cuối Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Sự bùng nổ sắp xảy ra của Nội chiến Trung Quốc đã gây áp lực buộc Tưởng Giới Thạch phải ban hành một Hiến pháp dân chủ, chấm dứt chế độ độc đảng của Quốc Dân Đảng. Đảng Cộng sản đã tìm kiếm một liên minh gồm một phần ba Quốc Dân Đảng, một phần ba Cộng sản và một phần ba các đảng phái khác để thành lập một chính phủ soạn thảo hiến pháp mới. Tuy nhiên, mặc dù bác bỏ ý tưởng này, Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cùng nhau tổ chức một hội nghị, trong đó cả hai đảng đều trình bày quan điểm. Giữa những cuộc tranh luận gay gắt, nhiều yêu cầu của Đảng Cộng sản đã được đáp ứng, bao gồm cả việc bầu cử phổ thông Lập pháp Viện. Các dự thảo này được gọi chung là Dự thảo Hiến pháp của Hội nghị Chính trị (政協憲草). Giáo sư John Ching Hsiung Wu, Phó Chủ tịch Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp, là tác giả chính của văn bản này.

Hiến pháp, với những sửa đổi nhỏ từ bản thảo mới nhất, đã được kỳ họp Quốc hội Lập hiến thông qua vào ngày 25 tháng 12 năm 1946 tại Nam Kinh, được Chính phủ Quốc gia ban hành vào ngày 1 tháng 1 năm 1947, và là hiến pháp Trung Quốc thứ năm và hiện hành chính thức có hiệu lực vào ngày 25 tháng 12 năm 1947. Hiến pháp được coi là giai đoạn thứ ba và cuối cùng của Quốc dân đảng tái thiết Trung Quốc. Những người Cộng sản, mặc dù đã tham dự hội nghị và tham gia soạn thảo hiến pháp, đã tẩy chay Quốc hội và tuyên bố sau khi phê chuẩn rằng họ không những không công nhận Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc mà tất cả các dự luật do chính quyền Quốc dân đảng thông qua cũng sẽ bị bỏ qua. nhờ thành tích của họ trong cuộc bầu cử (khoảng 800 trên tổng số 3045 ghế), việc họ tẩy chay không ngăn cản Quốc hội đạt đủ số đại biểu cần thiết và do đó bầu Tưởng Giới Thạch và Lý Tông Nhân làm chủ tịch và phó chủ tịch. Chu Ân Lai đã thách thức tính hợp pháp của Quốc hội vào năm 1947 khi khẳng định rằng Quốc dân đảng đã đích thân lựa chọn các thành viên của mình từ 10 năm trước, do đó Quốc hội không thể là đại diện hợp pháp của nhân dân Trung Quốc. File:Chungking_1946_Jan.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Chungking_1946_Jan.jpg|Hội nghị Hiệp thương Chính trị tại Trùng Khánh, dự thảo hiến pháp mới nhất đã được nhiều đảng phái chính trị khác nhau bao gồm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc thảo luận. File:1946_ROC_Assembly.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:1946_ROC_Assembly.jpg|Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Chính phủ Quốc dân, đã chuyển dự thảo được Hội nghị Hiệp thương Chính trị thông qua cho Hồ Thích, chủ tịch luân phiên của Quốc hội Lập hiến. File:Delivering_ceremony_of_the_Constitution_of_ROC.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Delivering_ceremony_of_the_Constitution_of_ROC.jpg|Ngô Chí Huy, Chủ tịch Quốc hội lập hiến, trao bản hiến pháp đã được phê chuẩn cho Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Chính phủ Quốc dân

Nội dung

Chủ nghĩa Tam Dân

Trong Điều 1, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập dựa trên Chủ nghĩa Tam Dân (Chinese: 三民主義; pinyin: Sān Mín Zhǔyì), bao gồm Dân tộc (民族), Dân quyền (民權), và Dân sinh (民生). Điều này thiết lập Trung Quốc là một "nước cộng hòa dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Điều 2 khẳng định chủ quyền quốc gia bắt nguồn từ nhân dân. Theo Điều 3, người có quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc là công dân của Trung Hoa Dân Quốc. Cuối cùng, Điều 5 đảm bảo sự bình đẳng giữa các sắc tộc trong quốc gia.

Quyền dân sự và chính trị của công dân

Các quyền và nghĩa vụ dân sự cơ bản của công dân được quy định tại Chương 2 của Hiến pháp. Chương 12 quy định bốn quyền chính trị của công dân: bầu cử công chức, bãi nhiệm công chức, sáng kiến lập pháp và trưng cầu dân ý.

Ngũ quyền Phân lập (Viện)

Khác với sự phân chia các nhánh quyền lực thông thường, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc thiết lập chế độ quản trị hiến pháp bán nghị viện với năm nhánh quyền lực. Năm nhánh của chính quyền hay Nguyên (院) bao gồm: Hành pháp viện (行政院), Lập pháp viện (立法院), Tư pháp viện (司法院), Khảo thí viện (考試院), và Giám sát viện (監察院). Sự phân chia năm quyền lực dựa trên lý thuyết chính trị cách mạng của Tôn Dật Tiên. Năm 1906, Tôn Dật Tiên đề xuất hệ thống năm quyền lực cho Trung Quốc, bổ sung thêm Khảo thí viện (考試院), và Giám sát viện (監察院) để cải thiện hiệu quả của chính quyền và ngăn chặn tham nhũng. Theo hệ thống này, Khảo thí viện quản lý việc lựa chọn các ứng viên quan liêu trong khi Giám sát viện giám sát sự liêm chính của chính quyền. Chương 5–9 của Hiến pháp quy định thẩm quyền của năm Viện. Nếu xảy ra tranh chấp hiến pháp giữa Viện, Điều 44 cho phép Tổng thống can thiệp bằng các phiên hòa giải. Tuy nhiên, quyền này có thể bị kiemr soát bởi các Viện, bởi họ vẫn có quyền từ chối lời kêu gọi hòa giải của Tổng thống.

Các nhóm chủng tộc ở vùng biên giới

Tư tưởng của Quốc dân Đảng Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi là tạo ra sự thống nhất giữa năm dân tộc truyền thống ở Trung Quốc (Hán, Mãn, Mông Cổ, Hồi (Hồi giáo) và Tây Tạng) để cùng nhau đứng lên chống lại chủ nghĩa đế quốc châu Âu và Nhật Bản như một quốc gia hùng mạnh. Hiến pháp có các điều khoản bảo vệ sự bình đẳng của các chủng tộc khác nhau và quyền chính trị của các nhóm chủng tộc ở vùng biên giới. Tuy nhiên, vì một số tỉnh tương tự như Trung Quốc đã được thành lập ở Mãn Châu và Tân Cương, nên chỉ có việc bảo vệ quyền tự trị địa phương ở Khu vực Nội Mông và Khu vực Tây Tạng được quy định rõ ràng.

Phân quyền

Quốc hội

Dựa trên học thuyết chính trị của Tôn Dật Tiên, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc phân biệt quyền lực chính trị với quyền lực cai trị, tạo ra một chiều hướng khác cho sự kiểm tra và cân bằng. Hiến pháp đã giới thiệu một cơ quan lập pháp có thẩm quyền mạnh mẽ - Quốc dân Đại hội (Tiếng Trung: 國民大會; pinyin: Guómín Dàhuì),thực hiện các quyền lực chính trị bắt nguồn từ nhân dân (Điều 25). Do đó, Quốc hội có chức năng kiểm tra các thể chế quốc gia có quyền lực cai trị: Tổng thống và Ngũ viện. Các thành viên của Quốc hội được nhân dân trực tiếp bầu ra với nhiệm kỳ sáu năm trong các cuộc bầu cử mở (Điều 28). Theo Điều 27, Quốc hội có quyền sửa đổi Hiến pháp, thực hiện các sáng kiến và trưng cầu dân ý thay mặt cho công dân, và bầu hoặc bãi nhiệm Tổng thống và Phó Tổng thống. Cùng với Lập pháp Viện và Giám sát Viện, Quốc dân Đại hội có các chức năng của quốc hội, gây ra sự nhầm lẫn xung quanh việc thể chế nào đóng vai trò là quốc hội của quốc gia. Lập pháp Viện, Quốc hội và Giám sát Viện đều là các cơ quan do công dân bầu ra; Tương tự như vậy, Quốc hội và Giám sát Viện thực thi các quyền hạn hiến định tương tự như các quyền hạn được trao cho nhánh lập pháp của các chính phủ lập hiến phương Tây. Năm 1957, Tòa án Hiến pháp phán quyết rằng Quốc hội, Viện Lập pháp và Viện Kiểm sát đều "tương đương với quốc hội của các quốc gia dân chủ", tạo ra một hệ thống nghị viện tam quyền phân lập. Các cải cách hiến pháp trong những năm 1990 sau đó đã tìm cách cô đọng quyền hạn và chức năng của ba quốc hội thành một cơ quan duy nhất. Sau khi dần dần chuyển giao quyền lực cho Lập pháp Viện, Quốc hội đã tự giải thể vào năm 2005.

Tổng thống

Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc (Chinese: 總統; pinyin: Zǒngtǒng) là nguyên thủ quốc gia và là Tổng Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Trung Hoa Dân Quốc. Cho đến năm 1996, Tổng thống và Phó Tổng thống do Quốc hội bầu ra. Sau nhiều lần sửa đổi hiến pháp vào những năm 1990, Tổng thống được bầu thông qua bầu cử phổ thông tự do vào năm 1996. Cả Tổng thống và Phó Tổng thống đều phục vụ nhiệm kỳ bốn năm và có thể được tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ. Ban đầu, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc quy định Tổng thống là một nhân vật mang tính nghi lễ, chủ trì một nước cộng hòa nghị viện: Tổng thống có thể ban hành lệnh đại xá và ân xá (Điều 40), trao tặng danh hiệu và huân chương (Điều 42), ban hành sắc lệnh khẩn cấp (Điều 43), và ra phán quyết trọng tài trong các tranh chấp giữa nhiều Viện (Điều 44). Các điều khoản khác liệt kê các quyền hạn liên quan, cho phép Tổng thống tuyên chiến và lập hòa (Điều 38), ban bố thiết quân luật với sự chấp thuận của Lập pháp Viện (Điều 39), và bổ nhiệm hoặc cách chức các quan chức quân sự (Điều 41). Tuy nhiên, sự kết hợp giữa nội chiến Trung Quốc và những xung lực độc đoán mạnh mẽ của Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã dẫn đến sự mở rộng đáng kể quyền lực của tổng thống, chuyển Trung Hoa Dân Quốc sang chế độ bán tổng thống. Năm 1948, Quốc hội đã phê chuẩn Điều khoản Tạm thời Chống Khởi nghĩa Cộng sản, thay thế Hiến pháp bằng cách trao cho Tổng thống các quyền hành pháp và hành chính được tăng cường. Theo Điều khoản Tạm thời, Tổng thống không còn bắt buộc phải có sự chấp thuận của Viện Lập pháp khi ban bố thiết quân luật như quy định tại Điều 39. Ngoài ra, Tổng thống và Phó Tổng thống có thể bỏ qua giới hạn hai nhiệm kỳ để tái đắc cử như được mô tả trong Điều 47. Kết quả là, Tưởng Giới Thạch đã phục vụ năm nhiệm kỳ sáu năm (hai mươi bảy năm) với tư cách là tổng thống trước khi qua đời vào năm 1975. Các Điều khoản tạm thời sẽ tồn tại ở Đài Loan trong bốn mươi ba năm cho đến khi nó bị bãi bỏ vào năm 1991. Tuy nhiên, vai trò của Tổng thống vẫn còn mơ hồ về mặt hiến pháp cho đến ngày nay.

Hành chính Viện

Hành chính Viện (Chinese: 行政院; pinyin: Xíngzhèngyuàn)là nhánh hành pháp của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc và là "cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước." Viện trưởng Hành chính Viện là Thủ tướng, do Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc bổ nhiệm và không còn cần sự chấp thuận của Lập pháp Viện. Thủ tướng có thể bị bãi nhiệm bằng một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của đa số Lập pháp Viện, sau đó Tổng thống có thể bãi nhiệm Thủ tướng hoặc giải tán Lập pháp Viện và khởi xướng một cuộc bầu cử mới cho các nhà lập pháp. Theo chế độ bán tổng thống của chính quyền hiến định, Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ trong khi Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Mặc dù Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Lập pháp Viện - một đặc điểm chung của hệ thống nghị viện - nhưng việc mở rộng quyền lực của Tổng thống đã làm thay đổi cơ chế kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh của chính phủ; về mặt chức năng, Thủ tướng đã trở thành cấp dưới của Tổng thống.

Hội đồng Hành chính Viện, được gọi là "Nội các" (Chinese: 內閣; pinyin: Nèigé),bao gồm một Thủ tướng, một Phó Thủ tướng, một số Bộ trưởng và Chủ nhiệm các Ủy ban, và một số Bộ trưởng không bộ (MWPs). Theo Điều 56, các thành viên nội các này được Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Nội các đóng vai trò là cơ quan hoạch định chính sách chủ chốt của nhánh hành pháp, triệu tập các cuộc họp Nội các hàng tuần để giải quyết các vấn đề hành chính. Điều 58 cho phép Nội các xem xét các dự luật theo luật định hoặc ngân sách liên quan đến thiết quân luật hoặc đại xá, tuyên chiến, ký kết hòa bình hoặc hiệp ước, và các vấn đề khác; sau đó Nội các trình các dự luật lên Viện Lập pháp. Nội các quyết định thông qua bỏ phiếu đa số, có thể bị Thủ tướng phủ quyết. Ngoài ra, Nội các chủ trì "các vấn đề thuộc mối quan tâm chung của các Bộ và Ủy ban khác nhau".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc** () là bản hiến pháp thứ năm và hiện hành của Trung Hoa Dân Quốc (ROC), được Quốc Dân Đảng phê chuẩn trong kỳ họp Quốc hội Lập hiến
**Tu chính Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc**, hay gọi đầy đủ là **Các Điều sửa đổi, bổ sung Hiến pháp Trung Hoa Dân quốc** (, _Trung Hoa Dân Quốc Hiến pháp Tăng tu điều
**Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung: 中華民國; Bính âm: Zhōnghuá Mínguó; Tiếng Anh: Republic Of China) là một quốc gia cộng hòa đã kiểm soát chủ quyền với toàn bộ Trung Quốc từ năm 1912
**Lập pháp viện** () là cơ quan lập pháp tối cao của Trung Hoa Dân quốc, gồm 113 thành viên. Tiền thân là Quốc hội sơ niên ở Bắc Kinh từ năm 1913 tới năm
**Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** () là người đứng đầu Nhà nước của Trung Hoa Dân Quốc. Chức vụ tổng thống được thành lập vào năm 1948 thay thế chủ tịch Chính phủ Quốc
**Chính trị Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)** được tổ chức theo chính thể cộng hòa dân chủ đại diện, trong đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng (Viện trưởng Hành
**Quốc dân đại hội** (tiếng Trung: 國民大會) là một cơ quan tồn tại trong giai đoạn 1947 - 2005 của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, có chức năng soạn thảo, sửa đổi Hiến pháp,
**Chính phủ Trung Hoa Dân quốc** (, _Trung Hoa Dân quốc Chính phủ_), trước năm 1949 dùng để chỉ chính quyền cộng hòa mà về danh nghĩa là chính quyền chính thức của lãnh thổ
nhỏ|Bản đồ phân cấp hành chính Trung Hoa Dân quốc Trong phạm vi lãnh thổ do mình quản lý, Trung Hoa Dân Quốc hiện tại chia thành 2 tỉnh (省, shěng, _tỉnh_) và 6 thành
Hệ thống quân hàm Quân đội Trung Hoa Dân Quốc là hệ thống cấp bậc quân sự của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc hiện nay. Lực lượng Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc được
"**Quốc ca Trung Hoa Dân Quốc**" (), hiện là quốc ca của Trung Hoa Dân Quốc. Bài hát này còn được nhiều người gọi không chính thức là **Tam Dân chủ nghĩa ca**. ## Lược
nhỏ|[[Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (Đài Bắc)|Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân quốc nằm ở khu Trung Chính, Đài Bắc.]]Kể từ khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc được thành lập năm 1912,
thumb| Cờ Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa được sử dụng thay cho lá cờ của Trung Hoa Dân Quốc tại [[Thế vận hội và trong một số sự kiện thể thao.]] **Quốc kỳ
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
nhỏ|Mặt tiền Hành chính viện **Hành chính viện** () là cơ quan hành chính cao nhất của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), tương đương với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949, Hành
phải|nhỏ|Cuộc họp thượng viện lâm thời tại [[Bắc Kinh]] **Quốc hội sơ niên Trung Hoa Dân Quốc** (), tồn tại từ 1913–1925 đề cập đến Trung Hoa Dân Quốc dựa trên "Hiến pháp nước Trung
**Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng Mông Cổ** bắt đầu vào tháng 10 năm 1919 và kéo dài cho đến đầu năm 1921, khi quân đội Trung Quốc trong Urga bị đánh bại bởi lực
**Cơn sốt Trung Hoa Dân Quốc** hay **Cơn sốt Dân Quốc** () đề cập đến một hiện tượng văn hóa ở Trung Quốc đại lục sau khi bước vào thế kỷ 21. Ngành công nghiệp
**Đài Loan** () là một trong hai tỉnh của **Trung Hoa Dân Quốc**. Tỉnh chiếm xấp xỉ 73% diện tích được kiểm soát bởi Đài Loan. Tỉnh bao gồm phần lớn đảo Đài Loan cũng
**Bí thư trưởng Phủ Tổng thống** (chữ Hán: _中華民國總統府秘書長_, phiên âm Hán Việt: _Trung Hoa Dân Quốc Tổng thống phủ Bí thư trưởng_) là người đứng đầu Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, do
thumb|Bộ Nội chính **Bộ Nội chính** Trung Hoa Dân Quốc (chữ Hán phồn thể: 內政部, bính âm Hán ngữ: _Nèizhèng bù_, Hán-Việt: _Nội chính bộ_) là một cơ quan cấp nội các thuộc Hành chính
**Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** là cơ quan giúp việc cho Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, Phó tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, đảm trách các công việc hành chính sự vụ
**Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc** (, , viết tắt: **MOFA**) là cơ quan phụ trách ngoại giao của Trung Hoa Dân Quốc, nằm dưới quyền Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc. Mục
**Bộ Giáo dục** (viết tắt **MOE**) (; Pha̍k-fa-sṳ: _Kau-yuk Phu_) là một bộ thuộc Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc (Chính phủ), có chức năng thực thi chính sách giáo dục và quản lý
**Lâm Sâm** (tiếng Hoa: 林森; bính âm: Lín Sēn; 1868 – 1 tháng 8 năm 1943), tự Tử Siêu (子超), hiệu **Trường Nhân** (長仁), là Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (Khi đó chức vụ
**Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc** () hay **Quân đội Trung Hoa Dân Quốc** hoặc **Quân đội Đài Loan** là lực lượng vũ trang của Trung Hoa Dân Quốc, bao gồm các nhánh Lục quân,
**Vùng Tự do của Trung Hoa Dân Quốc** là một mô tả pháp lý và chính trị của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc khi đề cập đến vùng lãnh thổ dưới sự kiểm soát
**Bộ Quốc phòng Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)** (tiếng Trung: 中華民國 國防部; bính âm: Zhōnghuá Mínguó Guófángbù) là một cơ quan cấp nội các trực thuộc nhánh hành pháp, chịu trách nhiệm về tất
**Khảo thí viện** (chữ Hán phồn thể: 考試院; bính âm: Kǎoshì Yuàn; Wade-Giles: K'ao3-shih4 Yüan4) là một trong năm nhánh của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, đảm nhiệm chứng thực tư cách của công
thumb|Tiêu Mỹ Cầm, Phó Tổng thống đương nhiệm kể từ ngày 20 tháng 5 năm 2024. Đây là một danh sách tất cả các Phó Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (1912 - nay). Phó
Chức vụ người đứng đầu cơ quan hành pháp (danh xưng thông dụng trong tiếng Việt là **Thủ tướng**) của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc trong lịch sử từng có vài lần thay đổi
**Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc** là chính phủ lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1924 đến 1926 và có trụ sở tại Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). ##
**Tư pháp viện** (chữ Hán phồn thể: ; bính âm: Sīfǎ Yuàn; Wade-Giles: Szu1-fa3 Yüan4; bạch thoại tự: Su-hoat Īⁿ) là nhánh tư pháp của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan. **Hội
**Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan** còn được gọi là **Quốc Dân Đảng dời sang Đài Loan** hay **Cuộc rút lui vĩ đại **đề cập đến cuộc di cư của chính phủ Trung
Danh sách này liệt kê các đảo do chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đang quản lý trên thực tế. ## Tổng quan # Đảo Đài Loan về mặt địa chất là một đảo lục
Một cuộc trưng cầu ý dân về việc bổ sung Điều 1-1 vào Tu chính Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được tổ chức tại Đài Loan vào ngày 26 tháng 11 năm 2022. Đề
**Hiến pháp Xã hội Chủ nghĩa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là hiến pháp của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, hay còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc
**Quốc dân Cách mệnh Quân** (chữ Hán: _國民革命軍_), đôi khi gọi tắt là **Cách mệnh Quân** (_革命軍_) hay **Quốc Quân **(_國軍_), là lực lượng quân sự của Trung Quốc Quốc dân Đảng từ năm 1925
**Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân quốc** (, giản xưng **Chính phủ Quốc dân** ) hay còn được gọi là **Đệ nhị Trung Hoa Dân quốc** và **Đệ nhị Cộng hòa Trung Hoa** là
nhỏ|Một tờ lịch kỷ niệm năm đầu tiên của nền Cộng hòa cũng như cuộc bầu cử của Tổng thống lâm thời [[Tôn Trung Sơn, .]] **16/7/2010 nguyên Dân quốc** hay **Lịch Dân quốc** (phồn
nhỏ|300x300px|[[Cờ hoa mai là cờ hiệu của Ủy ban Olympic Trung Hoa (Đài Loan)]] **Đài Bắc Trung Hoa** () hay **Trung Hoa Đài Bắc** (, , mã IOC: TPE) là một danh xưng đại diện
**Đế quốc Trung Hoa** () hoặc **Đế chế Hồng Hiến** () là một triều đại ngắn ngủi trong lịch sử Trung Quốc khi chính khách kiêm tướng quân nhiều quyền lực thời kỳ Dân Quốc
**Thống nhất Trung Quốc**, cụ thể hơn là **thống nhất** **xuyên eo biển**, là một khái niệm của Trung Quốc để chỉ việc thống nhất Trung Quốc đại lục (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
**Thành phố cấp huyện** hay đơn giản là **thành phố**, trước đây được gọi là **thành phố trực thuộc tỉnh**, là một đơn vị hành chính trong hệ thống phân cấp hành chính của Trung
Hiến pháp năm 1946 **Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946** là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Quốc hội khóa I thông qua
**Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, thường được gọi là **Tổng lý Quốc vụ viện** hoặc **thủ tướng Trung Quốc**, là người đứng đầu chính phủ của Trung Quốc. Chức
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
**Luật pháp cơ bản** hay **luật cơ bản** (chữ Anh: _Basic Law_, ) là luật pháp có được hiệu lực tối cao ở một quốc gia hoặc vùng đất, tác dụng thật tế của nó