✨Bộ Cá vây tay

Bộ Cá vây tay

Bộ Cá vây tay (danh pháp khoa học: Coelacanthiformes, nghĩa là 'gai rỗng' trong tiếng Hy Lạp cổ với coelia (κοιλιά) nghĩa là rỗng và acathos (άκανθος) nghĩa là gai) là tên gọi phổ biến trong tiếng Việt của một bộ cá bao gồm các loài cá có quai hàm cổ nhất còn sống đến ngày nay đã được biết đến. Cá vây tay có quan hệ họ hàng gần gũi với cá có phổi, được cho là đã tuyệt chủng vào cuối kỷ Phấn trắng cho đến tận năm 1938, khi người ta tìm thấy các cá thể còn sống ngoài khơi ven biển phía đông của Nam Phi, ngoài cửa sông Chalumna. Kể từ đó, chúng đã được tìm thấy ở Comoros, Sulawesi (Indonesia), Kenya, Tanzania, Mozambique, Madagascar và Vườn đất ẩm St. Lucia Lớn của Nam Phi.

Các đặc trưng sinh học

[[Latimeria chalumnae.]] Cá vây tay là cá vây thùy với các vây ức và vây hậu môn mọc trên các cuống nhiều thịt được các xương hỗ trợ và vây đuôi chia thành ba thùy, thùy giữa là sự kéo dài của dây sống. Cá vây tay có vây dạng cosmoid đã biến đổi, nó mỏng hơn vảy dạng cosmoid thực sự, là dạng vảy chỉ tìm thấy ở một số loài cá đã tuyệt chủng. Cá vây tay cũng có một cơ quan cảm nhận điện từ đặc biệt gọi là cơ quan ở mõm ở phía trước của hộp sọ, có lẽ để giúp chúng phát hiện con mồi.

Những con cá vây tay đầu tiên xuất hiện trong các mẫu hóa thạch thuộc giai đoạn giữa kỷ Devon, vào khoảng 410 triệu năm trước.. Các loài cá vây tay tiền sử sống trong nhiều môi trường nước vào cuối Đại Cổ Sinh và thời kỳ Đại Trung Sinh.

Khối lượng trung bình của cá vây tay khoảng 80 kg (176 pao) và chúng có thể dài tới 2 m (6,5 ft). Các nhà khoa học tin rằng cá vây tay có thể sống tới 60 năm. Cá vây tay thường sống ở độ sâu khoảng 700m (2.296,5 ft) dưới mực nước biển.

Cá vây tay tại Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên thuộc [[Đại học Oxford.]]

Nó là loài động vật còn sống duy nhất được biết là có khớp nối trong sọ có tác dụng, nó gần như tách rời hoàn toàn các nửa trước và sau của hộp sọ từ bên trong. Chỗ uốn cong ở khớp nối này có lẽ trợ giúp cá trong việc tiêu thụ những con mồi lớn. Cá vây tay cũng là loài cá nhớt; các vảy của chúng tiết ra chất nhầy và cơ thể của chúng liên tục ứa ra chất dầu. Chất dầu này là một chất nhuận tràng và gần như không thể ăn thịt chúng được, trừ khi được phơi khô và ướp muối. Vảy của chúng rất thô và được người dân khu vực Comoros dùng làm giấy nhám.

Mắt cá vây tay rất nhạy cảm và có tapetum lucidum (lớp chất phản quang như ở mắt mèo). Cá vây tay gần như không thể bị bắt trong thời gian ban ngày hay những đêm có trăng tròn, do độ nhạy cảm cao của mắt chúng.

Cá vây tay là những kẻ săn mồi cơ hội, chúng săn bắt các loài mực nang, mực ống, lươn dẽ giun, cá mập nhỏ và các khác được tìm thấy ở môi trường sinh sống của chúng cạnh các vách đá ngầm và dốc núi lửa ngầm. Cá vây tay còn được biết với kiểu bơi đầu cắm xuống, giật lùi và ngửa bụng để định vị con mồi của chúng có lẽ là để tận dụng tuyến trên mõm của chúng. Các nhà khoa học cho rằng một trong các lý do để chúng thành công như vậy là do chúng có thể giảm mạnh quá trình trao đổi chất vào bất kỳ lúc nào, chìm xuống các độ sâu mà chúng ít sinh sống hơn và giảm tối đa nhu cầu các chất dinh dưỡng theo kiểu ngủ đông.

Các mẫu hóa thạch

Mặc dầu hiện nay chỉ có hai loài còn tồn tại, nhưng như một nhóm tổng thể thì cá vây tay đã từng rất thành công với nhiều chi và loài, để lại nhiều mẫu hóa thạch từ kỷ Devon tới khi kết thúc kỷ Phấn trắng, từ thời điểm đó chúng dường như đã hứng chịu sự tuyệt chủng gần như hoàn toàn, và vượt qua thời điểm đó mà không có mẫu hóa thạch nào còn được biết đến. Thông thường người ta cho rằng cá vây tay đã không bị thay đổi gì trong nhiều triệu năm, nhưng trên thực tế thì các loài còn sống và thậm chí cả nguyên chi là không được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch. Tuy nhiên, một số loài tuyệt chủng, cụ thể là các loài trong các hóa thạch cuối cùng mà người ta đã biết, chi Macropoma thuộc kỷ Phấn trắng, rất giống với các loài còn sống. Lý do có thể nhất cho lỗ hổng này có lẽ là các đơn vị phân loại này đã bị tuyệt chủng ở những vùng nước nông. Các hóa thạch thuộc vùng nước sâu ít khi được tìm thấy đến mức các nhà cổ sinh vật học có thể phục hồi được chúng, làm cho các đơn vị phân loại thuộc những vùng nước sâu nhất biến mất khỏi các mẫu hóa thạch. Tuy nhiên, trạng thái này vẫn còn đang được các nhà khoa học điều tra.

Hình thái học bộ xương

trái|Hình ảnh chụp cắt lớp máy tính của bộ xương cá vây tay.

Xem hình ảnh chụp cắt lớp máy tính (CT) 3D của bộ xương cá vây tay, bao gồm cả các hình ảnh về khớp nối trong hộp sọ, tại [http://digimorph.org/specimens/Latimeria_chalumnae/whole/ Digimorph.org].

Sinh sản

Cá vây tay đẻ ra con thay vì đẻ trứng. Hành vi sinh sản của chúng vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng người ta tin rằng chúng không đạt đến độ trưởng thành về mặt sinh dục cho đến khi chúng trên 20 năm tuổi. Thời gian mang thai là 13 tháng, mỗi lần sinh từ 5 đến 25 cá con, chúng có khả năng tự sinh sống ngay sau khi sinh ra.

Phát hiện

Đầu tiên tại Nam Phi

Chứng cứ đầu tiên mà các nhà khoa học phương Tây có được về các loài cá vây tay hiện đại, còn sống là khi Marjorie Courtenay-Latimer, người phụ trách của viện bảo tàng tại Đông London, Nam Phi, phát hiện ra một mẫu vật trong khi kiểm tra các mẫu cá biển bất thường tại địa phương bắt được năm 1938. Bà đã xem xét mẻ cá của thuyền đánh cá chuyên đánh bắt cá mập gần sông Chalumna và nhìn thấy bộ vây cá màu xanh kỳ dị trong mẻ cá. Bà đã lôi con cá đó ra khỏi đống cá và đưa nó tới viện bảo tàng nhằm tìm xem nó là loại cá nào. Thất bại trong việc tìm nó trong bất kỳ cuốn sách nào bà có, bà đã cố gắng liên lạc với bạn của mình, giáo sư James Leonard Brierley Smith (1897-1968), nhưng ông đang đi vắng. Không thể bảo quản con cá này, bà đã gửi nó tới người nhồi bông thú. Khi Smith trở về, ông ngay lập tức nhận ra nó là cá vây tay, khi đó chỉ được biết đến từ các mẫu hóa thạch. Loài này được đặt tên khoa học là Latimeria chalumnae để ghi công bà Marjorie Courtenay-Latimer và vùng nước mà nó được tìm thấy. Con cá này được nói đến như là "hóa thạch sống".

Comoros

Một công cuộc tìm kiếm trên toàn thế giới đã được đề ra để tìm kiếm thêm cá vây tay, với phần thưởng là 100 bảng Anh (một số tiền rất đáng kể cho một người đánh cá Nam Phi bình thường vào thời gian đó). Mười bốn năm sau, chúng đã được tìm thấy ở gần Comoros, đầu tiên chỉ là một mẫu vật duy nhất, nhưng sau đó hóa ra là loài cá này không hề xa lạ đối với kiến thức của người địa phương: những người dân Comoros, tại cảng Mutsamudu trên đảo Anjouan, đã bối rối là có người nào đó muốn trả một số tiền lớn cho những con cá mà người dân địa phương gọi là gombessa hay mame, một loại cá kém chất lượng (gần như không ăn được) mà thỉnh thoảng những ngư dân của họ vẫn vô tình đánh bắt được.

Hiện nay họ đã có ý thức về tầm quan trọng của loài đang nguy cấp này và có chương trình để thả những con cá vây tay ngẫu nhiên đánh bắt được về biển cả, vì thế chúng có thể có cơ hội sống sót.

Mẫu vật thứ hai, do ngư dân Comoros là Ahmed Hussain tìm thấy năm 1952, ban đầu được miêu tả như một loài khác, Malania anjounae (theo tên của Daniel François Malan, thủ tướng Nam Phi thời kỳ đó, người đã phái cả máy bay Dakota của SAAF để mang mẫu vật về), nhưng sau đó người ta phát hiện ra rằng việc thiếu vây lưng thứ nhất, là điều mà người ta tin rằng nó khác với loài Latimeria, đã là do thương tích của mẫu vật khi nó còn non. Trớ trêu thay, Malan lại là một nhà sáng tạo luận trung thành; khi nhìn thấy tổ tiên (được cho là như vậy) của mọi loài động vật trên đất liền đã được đặt theo tên ông, phản ứng của ông là giật mình, "Tại sao nó lại xấu xí như vậy! Đây có phải là chỗ chúng ta từ đó mà ra?"

Smith đã viết các miêu tả của ông về cá vây tay trong cuốn sách Old Fourlegs ((Động vật) Bốn chân cổ), lần đầu tiên phát hành năm 1956. Cuốn sách của ông Sea Fishes of the Indian Ocean (Cá biển của Ấn Độ Dương), được minh họa và đồng tác giả với vợ ông, bà Margaret, vẫn còn là tham khảo ngư học tiêu chuẩn trong khu vực.

Loài thứ hai tại Indonesia

Năm 1997, Arnaz và Mark Erdmann đi hưởng tuần trăng mật tại Indonesia và nhìn thấy một con cá lạ khi đi chợ tại Manado Tua, trên đảo Sulawesi. Arnaz nhận ra nó là gombessa, mặc dù nó có màu nâu chứ không phải màu xanh lam. Vợ chồng Erdmann đã không nhận ra đây là một loài mới cho đến tận khi một chuyên gia để ý đến các hình ảnh họ đã chụp và đưa lên Internet. Thử nghiệm DNA phát hiện ra rằng loài này, được người dân Indonesia gọi là rajah laut ("Vua biển cả"), không có quan hệ họ hàng gì với quần thể ở Comoros. Nó được đặt tên khoa học là Latimeria menadoensis. Nghiên cứu phân tử gần đây ước tính thời gian rẽ ra giữa hai loài cá vây tay này là khoảng 40–30 Ma.

Khu vực bảo hộ biển St. Lucia tại Nam Phi

Tại Nam Phi, công việc nghiên cứu tìm kiếm vẫn duy trì trong nhiều năm. Một thợ lặn 46 tuổi là Riaan Bouwer, đã thiệt mạng khi thám hiểm cá vây tay tháng 6 năm 1998.

Ngày 28 tháng 10 năm 2000, gần biên giới phía nam của Mozambique, tại vịnh Sodwana trong khu vực bảo hộ biển St. Lucia, ba thợ lặn nước sâu — Pieter Venter, Peter Timm và Etienne le Roux — đã lặn tới độ sâu 104 m và bất ngờ nhận ra một con cá vây tay.

Gọi mình là "SA Coelacanth Expedition 2000" (Đoàn thám hiểm cá vây tay Nam Phi 2000), nhóm này đã quay trở lại, lần này cùng với thiết bị chụp ảnh và một vài thành viên bổ sung thêm. Vào ngày 27 tháng 11, sau lần lặn ban đầu không thành công của ngày hôm trước, bốn thành viên của nhóm — Pieter Venter, Gilbert Gunn, Christo Serfontein và Dennis Harding — đã tìm thấy ba con cá vây tay. Con lớn nhất dài khoảng 1,5 đến 1,8 m; hai con còn lại khoảng 1 đến 1,2 m. Những con cá này bơi với đầu cắm xuống và dường như tìm kiếm thức ăn từ các gờ đá ngầm của hang động lớn. Nhóm này đã trở lên bờ thành công với cảnh video và các bức ảnh cá vây tay.

Tuy nhiên, trong cuộc lặn này, Serfontein bất ngờ bị bất tỉnh, và Dennis Harding 34 tuổi đã nổi lên mặt nước cùng ông trong trạng thái không được kiểm soát. Harding kêu đau cổ và đã chết do tắc mạch máu não khi ở trên thuyền. Serfontein đã phục hồi sau khi được đưa xuống nước để điều trị chứng giảm áp suất (DCS).

Trong giai đoạn các tháng Ba-Tư năm 2002, tàu lặn Jago và đội lặn Fricke đã lặn tới độ sâu của vịnh Sodwana và quan sát được 15 con cá vây tay, trong đó có một con đang mang thai. Các mẫu mô đã được thu thập bằng cách phóng phi tiêu lấy mẫu.

Phân loại

Mẫu cá vây tay tại [[Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên của Anh tại London]] Coelacanthimorpha (phân lớp Cá vây tay) là tên gọi đôi khi được sử dụng để định danh nhóm Sarcopterygii có chứa bộ Cá vây tay (Coelacanthiformes). Dưới đây là phân loại của các họ và chi cá vây tay mà người ta đã biết, lấy theo Long (1995), Cloutier & Ahlberg (1996) và Clement (2005):

Lớp Sarcopterygii

  • Phân lớp Coelacanthinimorpha ? Lochmocercus ? Shoshonia Họ Miguashaiidae † ** Gavinia Miguashaia Họ Diplocercidae † ** Dictyonosteus Diplocercides ? Euporosteus ? Chagrinia Họ Hadronectoridae † ** Allenypterus Hadronector * Polyosteorhynchus * Họ Rhabdodermatidae † Caridosuctor Dumfregia Rhabdoderma * Synaptolus Spermatodus Sassenia † * Họ Laugiidae † Coccoderma Laugia Trachymetopon Bộ Coelacanthiformes * Họ Coelacanthidae † ** Axelia Wimania Ticinepomis *** Coelacanthus Họ Whiteiidae † Piveteauia Whiteia * Latimerioidei Granbergia Libys Macropomoides Megacoelacanthus * Họ Mawsoniidae † Alcoveria Diplurus Chinlea Axelrodichthys Mawsonia Họ Latimeriidae **** Undina Holophagus Macropoma Wenzia † * Latimeria ** L. menadoensis (cá vây tay Indonesia) ** L. chalumnae (cá vây tay Tây Ấn Độ Dương hay cá vây tay Comoros)
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bộ Cá vây tay** (danh pháp khoa học: **_Coelacanthiformes_**, nghĩa là 'gai rỗng' trong tiếng Hy Lạp cổ với _coelia_ (_κοιλιά_) nghĩa là rỗng và _acathos_ (_άκανθος_) nghĩa là gai) là tên gọi phổ biến
**Cá vây tay Tây Ấn Độ Dương**, đôi khi được gọi là **Cá vây tay châu Phi** (tên khoa học **_Latimeria chalumnae_**) là một loài cá vây tay sinh sống ở Tây Ấn Độ Dương.
**Lớp Cá vây thùy** (danh pháp khoa học: **_Sarcopterygii_**; ) (từ tiếng Hy Lạp _sarx_: mập mạp (nhiều thịt) và _pteryx_: vây) là một lớp cá có vây thùy theo truyền thống, bao gồm cá
**Bộ Cá chép răng** hay **bộ Cá bạc đầu** (danh pháp khoa học: **Cyprinodontiformes**) là một bộ cá vây tia, bao gồm chủ yếu là cá nhỏ, nước ngọt. Nhiều loài cá cảnh, chẳng hạn
**Bộ Cá da trơn** hay **bộ Cá nheo** (danh pháp khoa học: **_Siluriformes_**) là một bộ cá rất đa dạng trong nhóm cá xương. Các loài cá trong bộ này dao động khá mạnh về
**Bộ Cá râu** (danh pháp khoa học: **Polymixiiformes**) là một bộ cá vây tia bao gồm một chi sinh tồn là _Polymixia_ trong một họ còn loài sinh tồn là Polymixiidae và một vài chi,
**Bộ Cá chìa vôi** (danh pháp khoa học: **_Syngnathiformes_**) là một bộ cá vây tia bao gồm các loài cá chìa vôi và cá ngựa.. Một số tài liệu về động vật học của Việt
**Cá phổi Tây Phi** (danh pháp khoa học: _Protopterus annectens_) là một loài cá phổi được tìm thấy tại Tây Phi. Nó đôi khi được gọi là **cá phổi Tana**. ## Mô tả Cá phổi
**Họ Cá vây tua**, **họ Cá nhụ**, **họ Cá thiên đường**, **họ Cá chét** hoặc **họ Cá phèn nước ngọt** (danh pháp khoa học: **_Polynemidae_**) là một họ chủ yếu là cá biển, trừ chi
**Lớp Cá vây tia** (danh pháp khoa học: **_Actinopterygii_**; ) là một lớp chứa các loài cá xương có _vây tia_. Về số lượng, chúng là nhóm chiếm đa số trong số các động vật
Khoảng 80-87 loài hiện nay trong bộ Cá voi. [[Phát sinh chủng loài học cho thấy mối quan hệ giữa các gia đình cá voi. ]] Các loài cá voi đã tiến hóa từ các
**Cá vây tròn** (Danh pháp khoa học: _Cyclopterus lumpus_) là một loài cá biển trong họ Cyclopteridae thuộc bộ cá mù lằn Scorpaeniformes, cá vây tròn là loài duy nhất trong chi _Cyclopterus_. Chúng được
**Bộ Cá chó** (danh pháp khoa học: **_Esociformes_**) là một bộ nhỏ trong nhóm cá vây tia, với 2 họ là Umbridae (cá tuế bùn) và Esocidae (cá chó/cá măng). Danh pháp khoa học của
**Bộ Cá nóc** (danh pháp khoa học: **_Tetraodontiformes_**, còn gọi là **_Plectognathi_**) là một bộ cá thuộc lớp Cá vây tia (Actinopterygii). Đôi khi nhóm cá này được phân loại như là một phân bộ
thumb|right|Một con [[cá heo mũi chai đang phóng lên khỏi mặt nước.]] Đây là **danh sách các loài trong phân thứ bộ Cá voi**. Phân thứ bộ Cá voi bao gồm cá voi, cá heo,
**Bộ Cá nhám râu** (danh pháp khoa học: **_Orectolobiformes_**) là một bộ cá mập. Chúng còn được gọi là "cá mập thảm" (tiếng Anh: _Carpet shark_) vì nhiều thành viên có cơ thể được "trang
**Phân thứ bộ Cá voi** (danh pháp khoa học: **Cetacea**) (từ tiếng La tinh _cetus,_ cá voi) là một phân thứ bộ động vật có vú guốc chẵn gồm các loài như cá voi, cá
**Bộ Cá bơn** (danh pháp khoa học: **_Pleuronectiformes_**), còn gọi là **cá thờn bơn**, **cá thân bẹt**, là một bộ cá trong số các loài cá vây tia, còn được gọi là Heterosomata, đôi khi
thumb|_Yanosteus longidorsalis_ **Bộ Cá tầm** (**_Acipenseriformes_**; ) là một bộ của lớp cá vây tia (Actinopterygii) nguyên thủy bao gồm trong đó các họ cá tầm và cá tầm thìa, cũng như một số họ
Dưới đây là danh sách các loài cá có kích thước lớn nhất: ## Cá vây thùy (Sarcopterygii) thumb|[[Bộ Cá vây tay|Cá vây tay]] Cá vây thùy lớn nhất còn sinh tồn là cá vây
**Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên** là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam, giai đoạn 2008-hiện nay. Giai đoạn 2009-2015, dự án
nhỏ|phải|Bắt cá bằng tay ở Mỹ **Bắt cá bằng tay không** hay còn gọi là **Noodling** là một trò chơi bắt các loại cá da trơn mà chỉ được sử dụng tay không, hoặc bằng
**Bộ Cá đao** (danh pháp khoa học: **_Pristiformes_**), là một bộ cá dạng cá đuối, với đặc trưng là một mũi sụn dài ra ở mõm. Một số loài có thể phát triển dài tới
**Cá vây chân lưng gù** hay **Cá vẩy chân** (tên khoa học: **_Melanocetus johnsonii_**) sống ở độ sâu 2.000 m, có vẻ ngoài cục mịch, kì dị. Mình chúng tròn trịa như một quả bóng
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
**Cá** là những động vật có dây sống, phần lớn là ngoại nhiệt (máu lạnh), có mang (một số loài có phổi) và sống dưới nước. Hiện người ta đã biết khoảng trên 31.900 loài
**Cá heo** là động vật có vú sống ở đại dương và sông nước có quan hệ mật thiết với cá voi. Có gần 40 loài cá heo thuộc 17 chi sinh sống ở các
Aidenshop là thương hiệu may mặc BỘ BẦU thiết kế được các mom yêu thích bởi mẫu mã đẹp, hợp thời trang, giá hợp lý, phù hợp với túi tiền của mọi người. Dù là
**Cá nhám mang xếp** (tên khoa học **_Chlamydoselachus anguineus_**) là một loài cá mập thuộc chi _Chlamydoselachus_, họ _Chlamydoselachidae_. Đây là loài cá sống chủ yếu ở vùng biển sâu (trên 1.500 mét), phân bố
nhỏ|phải|Một con cá mập trắng **Cá mập tấn công** (tên gọi thông dụng tiếng Anh: _Shark attack_) chỉ về những vụ việc cá mập tấn công người. Những vụ tấn công của cá mập lên
**Cá tà ma**, danh pháp: **_Kyphosus vaigiensis_**, là một loài cá biển thuộc chi _Kyphosus_ trong họ Cá dầm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1825. Sở dĩ ngư dân gọi
**Cá mập** là một nhóm cá thuộc lớp Cá sụn, thân hình thủy động học dễ dàng rẽ nước, có từ 5 đến 7 khe mang dọc mỗi bên hoặc gần đầu (khe đầu tiên
**Cá hố** (danh pháp hai phần: **_Trichiurus muticus_** hay **_Trichiurus lepturus_**) là loài cá xương, sống ở biển thuộc họ cá Trichiuridae. Cá thuộc loại cá dữ, nổi lên tầng trên kiếm ăn vào ban
**Chi Cá kèn** (danh pháp khoa học: **_Aulostomus_**) là một chi cá biển, chỉ bao gồm 3 loài cá thuôn dài hình ống, chuyên biệt hóa cao. Nó cũng là chi duy nhất của **họ
Tiểu bộ **Cá voi có răng** (danh pháp khoa học: **_Odontoceti_**) là một tiểu bộ thuộc phân thứ bộ Cá voi (_Cetacea_). Tiểu bộ này bao gồm các loài cá nhà táng, cá voi mỏ,
Bộ Chân Váy Kẻ Áo Thun Cautio Set Váy Chữ A Kèm Áo Phông Dài Tay ❄️Em này đảm bảo là vạn người mê luôn vì vừa về cái các nàng đã múc ầm ầm
**Liên lớp Cá xương** (danh pháp khoa học: **_Osteichthyes_**) là một liên lớp trong phân loại học cho các loài cá, bao gồm cá vây tia (Actinopterygii) và cá vây thùy (Sarcopterygii) khi nhóm cá
**Cá vược** là tên gọi chỉ chung của nhiều loài cá khác nhau. Thuật ngữ cá vược đề cập đến cả các loài cá nước ngọt và cá biển, tất cả đều thuộc một bộ
**Cá bò da** (Danh pháp khoa học: _Aluterus monoceros_) là một loài cá nóc thuộc họ Monacanthidae trong bộ cá nóc. Loài này còn được biết đến với tên gọi **Cá bò giấy** hay còn
nhỏ|phải|Một con cá rô đồng **Cá rô** là một tên gọi thông dụng tại Việt Nam, dùng chung cho một số loài cá thuộc bộ Cá vược, trong đó có nhiều loài thuộc về Chi
Chân Váy Jean Dài Dáng Chữ A Xẻ Tà tag bò , chân váy bò cạp cao phong cách Hàn Quôc YANSOOTHÔNG TIN SẢN PHẨM : - Chất jean demin các cậu nhìn ảnh thật
thumb|Nhân viên [[Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ|NOAA đếm vi cá mập bị tịch thu]] **Cắt vi cá mập** chỉ việc săn bắt cá mập để thu hoạch vi
Sau thời gian dài mang thai, vùng bụng của phụ nữ thường trở nên chảy xệ, tích trữ nhiều mỡ. Cơ thể nhiều vết nhăn rạn và đặc biệt lớp da chết làm mât đi
Sữa tắm sữa dê tươi bơ ca cao diệt khuẩnHope’s Relief Shea butter & Cocoa butter + Goat’s Milk Body Wash 250mlThông tin sản phẩmThương hiệu: Hope’s Relief.Xuất xứ: Úc.Thể tích thực: 250ml.Đối tượng sử
**Cá voi Sei** ( hay , danh pháp hai phần: _Balaenoptera borealis_) là một loài cá voi thuộc phân bộ Cá voi tấm sừng hàm. Nó là loại sinh vật thuộc họ Cá voi lưng
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
**Cá bướm châu Phi** hay **Cá bướm nước ngọt**, tên khoa học **_Pantodon buchholzi_**, là loài duy nhất trong chi đơn loài **_Pantodon_**, họ **Pantodontidae** trong bộ Osteoglossiformes. Nó không có liên quan chặt chẽ
**Anabantoidei** hay **cá có mê lộ** là một phân bộ của bộ cá vây tia nước ngọt Anabantiformes, nguyên cũng là một phân bộ trong bộ Perciformes nghĩa cũ. Các loài cá trong phân bộ
nhỏ|phải|[[Thu hoạch cá vồ cờ ở Thái Lan]] **Nuôi cá da trơn** là hoạt động nuôi các loài cá da trơn để dùng làm nguồn thực phẩm cho con người, cũng như nuôi trồng những
THÔNG TIN SẢN PHẨM• Đầm váy tay bồng xếp ly thời trang Gautier.• Tất cả các bạn từ nữ 42kg -> 55kg đều mặc được cả nhé.• Chất liệu Umi co giản, thoáng mát form