Khoảng 80-87 loài hiện nay trong bộ Cá voi.
[[Phát sinh chủng loài học cho thấy mối quan hệ giữa các gia đình cá voi. ]]
Các loài cá voi đã tiến hóa từ các động vật có vú sống trên đất liền (có thể nhất có lẽ là từ tổ tiên chung là các dạng động vật ăn thịt có móng guốc, cùng nhánh chị em đồng tiến hóa kia là các động vật guốc chẵn (Artiodactyla) như lợn và hà mã). Chúng có lẽ đã thích nghi với cuộc sống đại dương vào khoảng 50 triệu năm trước.
Artiodactyla, nếu như loại bỏ nhóm Cetacea, là một nhóm đa ngành. Vì lý do này, thuật ngữ khoa học Cetartiodactyla (cá voi+guốc chẵn) đã được tạo ra để chỉ nhóm chứa cả động vật guốc chẵn và cá voi (mặc dù vấn đề có thể dễ dàng giải quyết bằng cách coi Cetacea là một phân nhóm của Artiodactyla).
Nguồn gốc sinh sống trên mặt đất của bộ Cá voi được chỉ ra bởi:
- Chúng cần phải thở không khí trên mặt nước;
- Các xương của vây giống với các chi của động vật có vú
- Sự chuyển động thẳng đứng của cột sống, đặc trưng của một loài động vật có vú hơn so với các chuyển động ngang của cá.
Câu hỏi làm thế nào một nhóm các động vật có vú đất trở nên thích nghi với đời sống thủy sinh là một bí ẩn cho đến khi người ta khám phá ra nhiều hoá thạch cá voi cổ, bắt đầu từ cuối những năm 1970 ở Pakistan. Các hoá thạch đã cung cấp bằng chứng về nhiều giai đoạn trong quá trình các loài thú sống trên đất liền tiến hoá thành thú sống ở biển.
Các tổ tiên cổ nhất
thumb|upright|[[Cây phát sinh chủng loài cho thấy bộ Cá voi thuộc Artiodactylamorpha]]
Theo học thuyết truyền thống thì cá voi có họ hàng gần với Mesonychia, một bộ thú móng guốc ăn thịt và là nhóm chị em của Artiodactyla (bộ Guốc chẵn). Giả thuyết này sinh ra là do loại răng ba đĩnh bất thường của Mesonychia và cá voi. Tuy nhiên, dữ liệu phát sinh loài phân tử gần nay hơn cho rằng cá voi gần với bộ Guốc chẵn hơn, đặc biệt là hà mã. Tuy nhiên, Anthracotheriidae cổ nhất, tổ tiên của hà mã, chỉ xuất hiện vào giữa thế Eocene, nhiều triệu năm sau khi Pakicetus, tổ tiên của cá voi, xuất hiện vào đầu thế Eocene, cho thấy hai nhánh này đã tách biệt từ trước thế Eocene.
Dữ liệu phân tử được ủng hộ bởi phát hiện Pakicetus, chi tiền cá voi cổ nhất. Bộ xương Pakicetus cho thấy cá voi không bắt nguồn trực tiếp từ Mesonychia. Thay vào đó, chúng là những Artiodactyla bắt đầu sống dưới nước không lâu sau khi Artiodactyla tách khỏi Mesonychia. Đáng chú ý rằng hầu hết tổ tiên động móng guốc đều ăn thịt hay xác thối, và bộ Guốc chẵn và bộ Guốc lẻ đã chuyển sang ăn thực vật. Ngược lại, cá voi vẫn giữa chế độ ăn thịt, vì con mồi của chúng có sẵn hơn và cần lượng calo nhiều hơn. Mesonychia cũng chuyên biệt hóa để ăn thịt, nhưng đây là một bất lợi vì con mồi lớn khi đó chưa phổ biến. Creodonta và Carnivora thích nghi tốt hơn đã đánh bại Mesonychia trong cuộc đua lắp đầy hốc sinh thái của khủng long.
Tóm tắt
Trước kia, các nhà khoa học không thể lý giải tại sao một loài thú có vú như cá voi lại sống dưới biển. Đây là luận điểm để những người chống đối thuyết tiến hóa dựa vào. Về logic thì lý lẽ của 2 bên như sau:
Chống đối thuyết tiến hóa: Nếu không có tiến hóa, thì cá voi phải luôn tồn tại dưới hình dáng hiện tại, trong môi trường nước hiện tại và không hề có dấu hiệu gì ở bất cứ giai đoạn nào trong vòng đời dính líu gì đến thú trên cạn. Cá voi sẽ không có quan hệ gần với nhóm thú trên cạn nào, vì nó được tạo ra riêng biệt cho biển. Trong di tích hóa thạch cá voi sẽ xuất hiện thình lình, với một khoảng trống không thể lấp đầy: Không hề có dạng trung gian với những đặc điểm của cá voi VÀ thú trên cạn.
Ủng hộ thuyết tiến hóa: Nếu cá voi đã tiến hóa từ thú có vú sống trên cạn, thì ta sẽ tìm thấy trong gen và trong quá trình phát triển của cá voi những dấu tích của quá trình một loài vật trên cạn thay đổi để sống dưới nước. Phân tích di truyền hoặc/và giải phẫu, sinh lý sẽ cùng chỉ về một nhóm động vật trên cạn còn sống hay hóa thạch là gần gũi với cá voi hơn cả. Dĩ nhiên, phải có dạng trung gian với những đặc điểm của cá voi VÀ thú trên cạn.
Từ các khám phá hóa thạch vào thập niên 1970 trở về sau, chúng ta tìm thấy được: đầu tiên là Pakicetus, một loài thú sống trên cạn bình thường, nhưng lại có thành xương dày quanh vùng tai giống như cá voi ngày nay; kế tiếp đó Ambulocetus lại có thêm chân ngắn lại, bàn tay chân bè hơn như mái chèo, đuôi to khỏe, cộng bằng chứng phân tích xương và đất bao quanh hóa thạch cho thấy nó dành nhiều thời gian bơi lội hơn… rồi những hóa thạch cho thấy sự chuyển dần vị trí 2 lỗ mũi lên trên đỉnh đầu như Maiacetus, cũng như sự giảm dần rồi đến tách rời của xương hông và chân sau, đến khi chỉ còn lại đôi chân nhỏ xíu, dị dạng của Basilosaurus. Còn lại ngày nay chỉ là 1 mẩu xương tí hon và vô dụng trong mình cá voi, nơi đáng ra phải là một đôi chân. Không chỉ ở vẻ ngoài, cá voi, cá heo vẫn có gen tạo chân (lông, tai ngoài v.v), và bào thai vẫn có phát triển mầm chân sau trước khi bị cơ thể tái hấp thụ, lâu lâu ngư dân lại bắt được một con cá voi có chân sau dị dạng. Phân tích DNA, ta cũng thấy cá voi có họ hàng rất gần với những loài như hà mã, củng cố giả thiết cá voi có nguồn gốc trên cạn… Kết luận: Những bằng chứng hoàn toàn ủng hộ cho thuyết tiến hóa.
Đặc điểm của bộ cá voi
"Cá voi" là từ bình dân chỉ bộ Cetacea, gồm cả cá heo lẫn cá voi, có răng (phân bộ Odontoceti, cá heo, cá voi sát thủ, cá nhà táng v.v) hoặc không răng – tấm sừng (Mysticeti, cá voi xanh, cá voi lưng gù, cá voi đầu bò), phạm vi bài viết này mình chỉ nói đến quá trình thích nghi với nước của nguyên bộ chứ không đi sâu vào phân bộ.
- Điểm khác cá:
- Thú có vú: hằng nhiệt, đẻ con, nuôi con bằng sữa, có chút lông.
- Không có mang, thở bằng phổi
- Cơ thể dày và tròn, không thon dài như cá.
- Vây đuôi theo phương ngang, đuôi đập lên – xuống khi bơi chứ không trái – phải như cá.
- Vây lưng là khối thịt – mô liên kết cứng, không có xương.
- Điểm khác thú:
- Các đốt sống cổ co ngắn, kết cấu xương sống rất linh hoạt, cho phép tạo lực đẩy lớn từ đuôi.
- Vây tay có những xương tương đồng với thú bốn chân nhưng bẹt ra và co ngắn, xương cổ tay dạng đĩa tròn với nhiều ngón tay kéo dài và khủy tay bất động.
- Không có chân sau nhưng ở vị trí đó có vài mẩu xương với kích cỡ khác nhau tùy loài và tùy cá thể.
- Nếu có, răng toàn bộ hình trụ hoặc nón, không phân biệt chức năng, không thể nhai thức ăn.
- Không có tuyến lệ, tuyến trên da hay khứu giác.
- Cá voi có lỗ thở trên đỉnh đầu, có loài có hai lỗ, có loài một. Lỗ thở này còn gọi là lỗ phun nước. Dù có một hay hai lỗ thở thì khi quan sát kết cấu xương mũi vẫn sẽ chia hai như thú.
- Thính giác nhạy nhưng không có tai ngoài. Tai trong (2 cục nhìn như 2 trái nho màu cam) tách biệt khỏi sọ, kết nối bằng một mấu xương hình chữ S đặc trưng. Nghe thông qua rung động truyền từ xương hàm và khối mỡ lớn (vàng) ⇐ chú ý điểm này, hệ thính giác của bộ cá voi là độc nhất vô nhị.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Khoảng 80-87 loài hiện nay trong bộ Cá voi. [[Phát sinh chủng loài học cho thấy mối quan hệ giữa các gia đình cá voi. ]] Các loài cá voi đã tiến hóa từ các
**Phân thứ bộ Cá voi** (danh pháp khoa học: **Cetacea**) (từ tiếng La tinh _cetus,_ cá voi) là một phân thứ bộ động vật có vú guốc chẵn gồm các loài như cá voi, cá
thumb|Phục dựng loài _[[Procynosuchus_, thành viên của nhóm cynodont, bao gồm cả tổ tiên của động vật có vú]] Tiến trình **tiến hóa của động vật có vú** đã trải qua nhiều giai đoạn kể
thumb|right|Một con [[cá heo mũi chai đang phóng lên khỏi mặt nước.]] Đây là **danh sách các loài trong phân thứ bộ Cá voi**. Phân thứ bộ Cá voi bao gồm cá voi, cá heo,
**Tiểu bộ Cá voi cổ** (danh pháp khoa học: **_Archaeoceti_**) là một nhóm cận ngành chứa các dạng cá voi cổ đã phát sinh ra các dạng cá voi hiện đại (_Autoceta_). Từng có thời
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
phải|Loài [[cá voi lưng gù nổi tiếng với những bài hát của chúng]] **Bài hát của cá voi** (tiếng Anh: _whale song_) là âm thanh mà cá voi tạo ra với mục đích giao tiếp
**Cá voi xám** (danh pháp hai phần: **_Eschrichtius robustus_**), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài
Tiểu bộ **Cá voi có răng** (danh pháp khoa học: **_Odontoceti_**) là một tiểu bộ thuộc phân thứ bộ Cá voi (_Cetacea_). Tiểu bộ này bao gồm các loài cá nhà táng, cá voi mỏ,
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
nhỏ|Tấm sừng **Cá voi tấm sừng** (Danh pháp khoa học: _Mysticeti_) là một trong hai tiểu bộ của cá voi Cetacea (cá voi, cá heo, cá heo chuột). Cá voi tấm sừng được đặc trưng
nhỏ|phải|[[Eurohippus, một trong những tổ tiên của ngựa]] **Ngựa** có một quá trình tiến hóa lâu dài. Các loài ngựa trong họ Ngựa hiện nay gồm có ngựa, ngựa vằn và lừa. Chúng cùng một
} Trong sinh học, **tiến hóa** là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Những đặc tính này là sự biểu hiện
**Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa** bắt đầu kể từ khi các ý tưởng về sự tiến hóa gây được sự chú ý vào thế kỷ 19. Ban đầu, vào năm 1859, khi Charles
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
[[Tập tin:Modern Synthesis 2.png|nhỏ|Thuyết tiến hóa tổng hợp (**M**) dựa vào thành tựu chủ yếu của: 1 = Di truyền học quần thể (**population genetics**), 2 = Di truyền Mendel (**Mendelian genetics**), 3 = Chọn
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
Hình ảnh mô phỏng của một đám mây bụi tiền hành tinh. **Sự hình thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời** bắt đầu từ cách đây khoảng 4,6 tỷ năm với sự suy sụp
**Cá voi sát thủ**, còn gọi là **cá heo đen lớn** hay **cá hổ kình** (danh pháp hai phần: **_Orcinus orca_**) là một loài cá heo thuộc phân bộ cá voi có răng, họ hàng
Trong sinh học, **đồng tiến hóa** (tiếng Anh: _coevolution_) là một dạng tiến hóa xảy ra khi hai hoặc nhiều loài ảnh hưởng đến sự tiến hóa của nhau thông qua quá trình chọn lọc
nhỏ|Biểu tượng của tiến hóa **Thuyết tiến hoá trung tính** là lý thuyết sinh học cho rằng ở cấp độ phân tử, thì quá trình tiến hoá diễn ra bằng cách củng cố ngẫu nhiên
**Bộ Cá bơn** (danh pháp khoa học: **_Pleuronectiformes_**), còn gọi là **cá thờn bơn**, **cá thân bẹt**, là một bộ cá trong số các loài cá vây tia, còn được gọi là Heterosomata, đôi khi
**Bộ Cá da trơn** hay **bộ Cá nheo** (danh pháp khoa học: **_Siluriformes_**) là một bộ cá rất đa dạng trong nhóm cá xương. Các loài cá trong bộ này dao động khá mạnh về
**Bộ Cá nóc** (danh pháp khoa học: **_Tetraodontiformes_**, còn gọi là **_Plectognathi_**) là một bộ cá thuộc lớp Cá vây tia (Actinopterygii). Đôi khi nhóm cá này được phân loại như là một phân bộ
phải|(A) _[[Centrophryne spinulosa_, 136 mm SL
(B) _Cryptopsaras couesii_, 34.5 mm SL
(C) _Himantolophus appelii_, 124 mm SL
(D) _Diceratias trilobus_, 86 mm SL
(E) _Bufoceratias wedli_, 96 mm SL
(F) _Bufoceratias shaoi_, 101 mm
**Bộ Cá ốt me** (danh pháp khoa học: **_Osmeriformes_**) là một bộ cá vây tia bao gồm **cá ốt me thật sự hay cá ốt me nước ngọt và đồng minh**, chẳng hạn như cá
**Tâm lý học tiến hóa** là một cách tiếp cận lý thuyết trong khoa học xã hội và tự nhiên, xem xét cấu trúc tâm lý từ quan điểm tiến hóa hiện đại. Nó tìm
**Bằng chứng về tổ tiên chung** đã được phát hiện bởi các nhà khoa học nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học trong nhiều thế kỷ, đã chứng minh rằng tất cả các sinh vật
**Bộ Cá vây tay** (danh pháp khoa học: **_Coelacanthiformes_**, nghĩa là 'gai rỗng' trong tiếng Hy Lạp cổ với _coelia_ (_κοιλιά_) nghĩa là rỗng và _acathos_ (_άκανθος_) nghĩa là gai) là tên gọi phổ biến
**Bộ Cá sấu (Crocodilia)** là một bộ thuộc lớp Mặt thằn lằn (_Sauropsida_) hay theo các phân loại truyền thống thì thuộc lớp Bò sát (_Reptilia_), xuất hiện từ khoảng 84 triệu năm trước, vào
Đã xảy ra nhiều trường hợp xác **cá voi phát nổ** do tích tụ khí trong quá trình phân hủy. Thuốc nổ trong thực tế cũng đã được sử dụng để hỗ trợ xử lý
**Bộ Cá láng** (danh pháp khoa học: **_Lepisosteiformes_**) là một bộ cá gồm 1 họ duy nhất còn sinh tồn là **Lepisosteidae** với 7 loài trong 2 chi, sống trong môi trường nước ngọt, đôi
**Bộ Cá vược** (danh pháp khoa học: **_Perciformes_**, còn gọi là **_Percomorphi_** hay **_Acanthopteri_**, như định nghĩa truyền thống bao gồm khoảng 40% các loài cá xương và là bộ lớn nhất trong số các
**Chạy đua tiến hóa** là một cuộc đua tranh biến đổi giữa các bộ gen đang ngày càng phát triển cùng các tính trạng hoặc các loài đang cạnh tranh sinh học lẫn nhau để
**Liên họ Cá nhà táng** (danh pháp khoa học: **_Physeteroidea_**) là một liên họ sinh học chứa 3 loài còn sinh tồn trong 2 họ thuộc phân bộ cá voi có răng (Odontoceti): * _Physeteridae_:
**Tiến hóa hội tụ** là sự tiến hóa một cách độc lập của các đặc điểm tương tự ở các loài thuộc các thời kỳ hoặc kỷ nguyên khác nhau. Tiến hóa hội tụ tạo
**Bộ Cá tráp** (tên khoa học: **_Spariformes_**) là một bộ cá trong loạt cá dạng cá vược (Percomorpha/ Percomorphaceae). Năm 1962, nhà ngư học Nhật Bản Masato Akazaki lần đầu tiên nhận thấy và xác
**Ủy ban Cá voi Quốc tế** (**IWC**) là một cơ quan quốc tế được thành lập theo các điều khoản của Công ước Quốc tế về Quy định Đánh bắt cá voi (ICRW), được ký
**Phân bộ Cá bàng chài** (danh pháp khoa học: **_Labroidei_**) theo phân loại truyền thống là một phân bộ trong bộ Cá vược (Perciformes), bộ lớn nhất trong nhóm cá về số lượng loài. Phân
**Tiến hóa hữu thần** là khái niệm tương tự khẳng định rằng lời dạy cổ điển tôn giáo về Thiên Chúa là tương thích với sự hiểu biết khoa học hiện đại về sự tiến
**Bộ Cá khế** (danh pháp khoa học: **_Carangiformes_**) là một bộ cá dạng cá vược (Percomorpha hay Percomorphacea theo E. O. Wiley & G. David Johnson (2010) hoặc Percomorphaceae theo R. Betancur-R. et al. (2013).
**Afonso I** (25 tháng 6, 1109, Guimarães hoặc Viseu – 6 tháng 12, 1185, Coimbra), thường được gọi là **Afonso Henriques** (), người Bồ Đào Nha gọi ông bằng biệt danh "Nhà Chinh phục" (),
nhỏ| Chọn lọc tự nhiên và [[Chọn lọc giới tính|chọn lọc tình dục thường được cho là hành động trực tiếp nhất đối với hành vi (ví dụ, động vật chọn làm gì khi đối
**Bộ Cá đối** (danh pháp khoa học: **_Mugiliformes_**) là một bộ cá vây tia. Hiện tại, bộ này chỉ chứa duy nhất một họ là họ Cá đối (Mugilidae), với khoảng 66-80 loài cá đối
**Bộ Cá cháo biển** (danh pháp khoa học: **_Elopiformes_**) là một bộ cá vây tia, bao gồm cá cháo biển và cá cháo lớn, cũng như một số nhánh cá tuyệt chủng. Bộ này có
**Bộ Cá ốt me biển** hay **bộ Cá quế lạc** (danh pháp khoa học: **_Argentiniformes_**) là một bộ cá vây tia mà sự khác biệt của nó chỉ được phát hiện tương đối gần đây.
thumb|upright=1.35|[[chuỗi lớn sinh vật Trung cổ như một cầu thang, ngụ ý khả năng tiến bộ: _Thang thăng trầm tư duy_ của Ramon Lull, 1305]] **Các lựa chọn thay thế cho tiến hóa do chọn
**Cá đuối ó** **(Myliobatiformes)** là một trong 4 bộ cá đuối. Trước đây chúng thuộc bộ Rajiformes, nhưng các nghiên cứu phân tử gần đây cho thấy rằng _myliobatiforms_ là một nhóm đơn ngành, và
**Manuel I** (31 tháng 5, 1469–13 tháng 12, 1521), còn được biết đến với biệt danh "**Người Phiêu lưu"** hay "**Người may mắn**", là vua Bồ Đào Nha từ năm 1495 đến năm 1521. Manuel
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật