✨Cá voi minke

Cá voi minke

Cá voi minke () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực (hoặc phía nam). Cá voi minke được mô tả lần đầu tiên bởi nhà tự nhiên học người Đan Mạch Otto Fabricius vào năm 1780, ông cho rằng nó phải là một loài đã được biết đến và gán mẫu vật của mình cho loài Balaena rostrata, cái tên được Otto Friedrich Müller đặt cho loài cá voi mũi chai phương bắc vào năm 1776. Năm 1804, Bernard Germain de Lacépède đã mô tả một mẫu vật chưa trưởng thành của Balaenoptera acutorostrata. Cái tên "minke" là bản dịch một phần của minkehval trong tiếng Na Uy, có thể là theo tên một người săn cá voi người Na Uy tên là Meincke, người đã nhầm lẫn cá voi minke phương bắc với cá voi xanh.

Phân loại

thumb|So sánh cá voi lưng gù và cá voi minke. Minh họa bởi [[Charles Melville Scammon (1825–1911).]]

Hầu hết các phương pháp phân loại hiện đại đều chia cá voi minke thành hai loài:

  • Cá voi minke thông thường hoặc cá voi minke phương bắc (Balaenoptera acutorostrata), và
  • Cá voi minke Nam Cực hoặc cá voi minke phương nam (Balaenoptera bonaerensis).

Các nhà phân loại còn phân loại tiếp cá voi minke thông thường thành hai hoặc ba phân loài; cá voi minke Bắc Đại Tây Dương, cá voi minke Bắc Thái Bình Dương và cá voi minke lùn. Tất cả các loài cá voi minke đều thuộc Họ Cá voi lưng gù, một họ bao gồm cá voi lưng gù, cá voi vây, cá voi Bryde, cá voi Sei và cá voi xanh.

Ít nhất một lần, một con cá voi minke Nam Cực đã được xác nhận là đã di cư đến Bắc Cực. Ngoài ra, ít nhất hai loài lai hoang dã giữa cá voi minke thông thường và cá voi minke Nam Cực đã được xác nhận.

Miêu tả

left|thumb|Bộ xương cá voi minke, [[Museum Koenig, Đại học Bonn]] thumb|Trái tim của cá voi minke (Balaenoptera acutorostrata) Cá voi minke là loài cá voi tấm sừng hàm nhỏ thứ hai; chỉ xếp sau cá voi đầu bò lùn. Khi đạt đến độ tuổi trưởng thành về giới tính (7–8 tuổi), con đực có chiều dài và khối lượng cơ thể trung bình là và , trong khi đó con cái là và ; kích thước tối đa ước tính đối với con cái cho thấy chúng có thể đạt chiều dài vượt quá và nặng hơn .

Có thể phân biệt cá voi minke thông thường với các loài cá voi khác bằng một dải màu trắng trên mỗi chân chèo. Cơ thể thường có màu đen hoặc xám đen ở trên và màu trắng ở dưới. Cá voi Minke có từ 240 đến 360 tấm sừng hàm ở mỗi bên miệng. Hầu hết chiều dài lưng, gồm cả vây lưng và lỗ phun nước, xuất hiện ngay lập tức khi cá voi nổi lên để thở.

Cá voi minke thường sống từ 30–50 năm, nhưng trong một số trường hợp, chúng có thể sống tới 60 năm. Chúng có thời gian mang thai và sinh sản lần lượt là khoảng 10–11 tháng và 2 năm.

Cá voi minke có hệ thống tiêu hóa gồm bốn ngăn với mật độ vi khuẩn kỵ khí cao khắp cơ thể. Sự hiện diện của vi khuẩn cho thấy cá voi minke dựa vào quá trình tiêu hóa của vi sinh vật để lấy chất dinh dưỡng do thức ăn của chúng cung cấp.

Giống như hầu hết các loài thuộc tiểu bộ Cá voi tấm sừng hàm khác, hệ thống thính giác của cá voi minke vẫn chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, hình ảnh cộng hưởng từ chỉ ra bằng chứng cho thấy cá voi minke có mỡ tích tụ trong hàm nhằm mục đích tiếp nhận âm thanh, giống như loài Cá voi có răng.

Bộ não của cá voi minke có khoảng 12,8 tỷ tế bào thần kinh vỏ não mới và 98,2 tỷ tế bào thần kinh đệm vỏ não mới. Ngoài ra, mặc dù có kích thước tương đối lớn nhưng cá voi minke rất nhanh, có khả năng bơi với tốc độ và hành vi nổi lên bề mặt của chúng có thể diễn ra rời rạc và khó theo dõi.

Hành vi

{| class="toccolours" style="float:right;margin-left: 1em;"|- style="text-align: center;"|Multimedia relating to the minke whale

Note that whale calls have been sped up to ten times their original speed.
|-| thumb|left|Một con cá voi minke đang xoay người Cá voi minke thường thở từ ba đến năm lần trong khoảng thời gian ngắn trước khi "lặn sâu" trong 2 đến 20 phút. Việc lặn sâu được bắt đầu bằng việc uốn cong lưng rõ rệt. Tốc độ bơi tối đa của loài này được ước tính là .

Di cư

Cả hai loài đều thực hiện các tuyến di cư theo mùa đến các cực vào mùa xuân và hướng tới vùng nhiệt đới vào mùa thu và mùa đông. Sự khác biệt về thời gian của các mùa có thể ngăn cản hai loài có quan hệ gần gũi với nhau khỏi việc giao phối chéo. Một nghiên cứu nhận dạng ảnh dài hạn trên bờ biển British Columbia và Washington cho thấy một số cá thể có thể di chuyển xa tới 424 km về phía bắc vào mùa xuân và 398 km về phía nam đến vùng nước ấm hơn vào mùa thu. Nhiều chi tiết cụ thể về sự di cư ở loài này vẫn chưa rõ ràng.

Sinh sản

Thời gian mang thai của cá voi minke là mười tháng và cá voi con có kích thước từ khi mới sinh. Con non bú mẹ từ năm đến mười tháng. Mùa sinh sản của cá voi minke là mùa hè. Sự sinh sản được cho là diễn ra hai năm một lần.

Thời điểm thụ thai và sinh con có sự khác biệt giữa các vùng.

Ở Bắc Đại Tây Dương, quá trình thụ thai diễn ra từ tháng 12 đến tháng 5 với cao điểm là tháng 2 còn quá trình sinh nở diễn ra từ tháng 10 đến tháng 3 với cao điểm là tháng 12. Ở Bắc Thái Bình Dương ngoài khơi Nhật Bản dường như có hai giai đoạn thụ thai, phần lớn diễn ra từ tháng 2 đến tháng 3 nhưng cũng có thể là từ tháng 8 đến tháng 9, trong khi đó việc sinh sản diễn ra từ tháng 12 đến tháng 1 và tháng 6 đến tháng 7. Ở các đàn cá tại biển Hoàng Hải, không diễn ra hiện tượng chia hai giai đoạn như trên mà chỉ ghi nhận việc thụ thai xảy ra từ tháng 7 đến tháng 9 và việc sinh sản từ tháng 5 đến tháng 6.

Ở Nam bán cầu, quá trình thụ thai diễn ra từ tháng 6 đến tháng 12 với đỉnh điểm là vào tháng 8 và tháng 9. Thời gian sinh sản cao điểm xảy ra từ tháng 7 đến tháng 8.

Săn mồi

Việc cá voi sát thủ săn cá voi minke đã được ghi nhận nhiều. Một nghiên cứu vào năm 1975 cho thấy 84% trong số 49 dạ dày của cá voi sát thủ đã ăn thịt cá voi minke. Nghiên cứu xác cá voi minke sau khi chúng bị tấn công cho thấy cá voi sát thủ có xu hướng thích lưỡi và hàm dưới của cá voi minke. Cơ chế chống loài săn mồi của cá voi minke hoàn toàn là phản ứng bỏ chạy, vì khi cơ chế này thất bại thì không quan sát thấy có sự chống trả về mặt vật lý nào của cá voi minke đối với loài săn mồi. Các cuộc rượt đuổi thường hướng về phía đại dương, mặc dù đã có ghi chép về việc cá voi minke vô tình bơi vào vùng nước nông, hẹp. Đã có hai trường hợp được ghi nhận về việc cá voi minke kết thúc cuộc rượt đuổi bằng cách ẩn nấp dưới thân tàu; tuy nhiên, cả hai trường hợp đều không thành công.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
**Cá voi minke Nam Cực** (danh pháp hai phần: _Balaenoptera bonaerensis_) là một loài cá voi trong họ Balaenopteridae. Cá voi minke Nam Cực sinh sống ở Nam Bán Cầu. ## Mô tả Cá voi
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
phải|Thủy thủ đoàn tàu nghiên cứu hải dương "Princesse Alice" (Công Chúa Alice) của Albert Grimaldi (cố hoàng thân [[Albert I, hoàng thân Monaco|Albert I của Monaco) chụp một kiểu ảnh trong lúc chặt khúc
**Cá voi xám** (danh pháp hai phần: **_Eschrichtius robustus_**), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
thumb|right|Một con [[cá heo mũi chai đang phóng lên khỏi mặt nước.]] Đây là **danh sách các loài trong phân thứ bộ Cá voi**. Phân thứ bộ Cá voi bao gồm cá voi, cá heo,
**Họ Cá voi lưng gù** (**Balaenopteridae**) là họ gồm các loài cá voi tấm sừng lớn nhất, với 9 loài trong 2 chi. Họ này gồm loài động vật lớn nhất trên thế giới còn
thumb|[[Cá voi lưng gù (_Megaptera novaeangliae_)]] thumb|[[Hải cẩu báo (_Hydrurga leptonyx_)]] **Thú biển** hay **động vật có vú biển** là các loài thú (động vật có vú) sống dựa vào đại dương và các hệ
**Quần đảo Shantar** () là một nhóm gồm 15 hòn đảo nằm ở ngoài khơi gần bờ biển tây bắc của biển Okhotsk, phía đông của vịnh Uda và phía bắc của vịnh Academy. Hầu
thumb|right|Cánh đồng lúa gần ga Kasanui ở Tawaramoto-cho **Nông lâm ngư nghiệp** là ngành công nghiệp khu vực một của nền kinh tế Nhật Bản cùng với ngành khai khoáng, song chúng chỉ chiếm 1,3%
**Tierra del Fuego** (, ; dịch nghĩa là "**Đất Lửa**") là một quần đảo ngoài khơi mũi cực nam của đại lục Nam Mỹ, cách nhau qua eo biển Magellan. Quần đảo này gồm có
**Rạn san hô Great Barrier** ("Đại Bảo Tiều" hoặc "Bờ Đá Lớn") là hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm hơn 2.900 rạn san hô riêng rẽ và 900 hòn đảo
Vịnh hẹp Doubtful Sound Vịnh Doubtful Sound ở vị trí Tây Nam đảo Nam Toàn cảnh vịnh Doubtful Sound được quan sát từ Deep Cove **Doubtful Sound** là một trong những vịnh hẹp sâu và
**Khu bảo tồn thiên nhiên Komandorsky** () hay **Khu dự trữ sinh quyển S.V Makarov** là một khu bảo tồn thiên nhiên (_Zapondnik_) nằm trên Quần đảo Komandorski, thuộc vùng Kamchatka, Viễn Đông Nga. Nó