✨Yên Chiêu Tương vương

Yên Chiêu Tương vương

Yên Chiêu Tương vương (chữ Hán: 燕昭襄王; trị vì: 311 TCN-279 TCN), thường gọi là Yên Chiêu Vương (燕昭王), là vị vua thứ 39 hay 40.

Lên ngôi trong loạn lạc

Vua cha Yên vương Khoái tín nhiệm tướng quốc Tử Chi, trao hết quyền chính trong nước cho Tử Chi. Yên vương Khoái tuổi cao, nhận thấy tài năng của mình không bằng Tử Chi, và nghe theo lời khuyên của Lộc Mao Thọ, quyết định nhường ngôi vua cho Tử Chi vào năm 317 TCN.

Việc Tử Chi lên ngôi khiến người nước Yên bất bình. Năm 314 TCN, thái tử Cơ Chức cùng tướng quân Thị Bị tập hợp dân chúng nổi dậy chống lại Tử Chi, kéo đến đánh kinh thành. Hai bên đánh nhau nhiều ngày, hàng vạn người bị chết, trong nước đại loạn. Thị Bị bị Tử Chi đánh bại và giết chết, thái tử Bình bỏ trốn.

Nhân lúc nước Yên có loạn, Tề Tuyên vương sai Khuông Chương mang quân đánh nước Yên. Các sĩ tốt không chiến đấu vì Tử Chi, quân Tề đại thắng, tiến vào kinh đô. Yên Khoái và Tử Chi bị sát hại.

Chiêu hiền đãi sĩ

Yên Chiêu vương lên ngôi, quyết tâm chấn hưng nước Yên, diệt nước Tề để rửa hận. Tuy nhiên, lúc đầu Yên Chiêu vương vẫn chưa tìm được nhân tài trị quốc, có người nhắc Yên Chiêu vương là có lão thần Quách Ngỗi (郭隗) rất có kiến thức và tìm đến hỏi kế. Yên Chiêu vương sau đó đã đích thân đến thăm Quách Ngỗi và nói: "Nước Tề nhân lúc nước ta có nội loạn mà đem quân xâm lược, ta không thể quên mối nhục đó. Nhưng hiện nay, thế nước Yên nhỏ yếu nên chưa thể báo được mối thù đó. Nếu có người hiền tài giúp ta báo thù rửa nhục thì ta xin hết lòng nghe theo. Tiên sinh có thể tiến cử cho một người như thế không?". Quách Ngỗi kể một câu chuyện về một ông vua sai thị thần đi mua thiên lý mã song anh ta lại mua bộ xương xương ngựa về rồi bảo rằng mọi người biết nhà vua bỏ tiền ra mua ngựa chết thì sẽ mang ngựa sống đến cho nhà vua; mọi người vì nghĩ rằng nhà vua thực sự yêu mến thiên lý mã nên không tới một năm sau khắp nơi mang nhiều thiên lý mã đến. Quách Ngỗi khuyên ông nếu muốn thực sự muốn kiếm người hiền tài thì cứ thử theo cách mua xương ngựa.

Sau khi ra về, ông lập tức sai người làm một ngôi nhà thật lộng lẫy cho Quách Ngỗi, tôn Quách Ngỗi làm sư, một mực cung kính. Nhân tài các nước hay tin Yên Chiêu vương thực lòng mến mộ người tài nên rủ nhau đến nước Yên, trong đó có nhiều vị tướng nổi tiếng thời Chiến Quốc như Nhạc Nghị từ Ngụy đến, Trâu Diễn từ Tề sang, hay Kịch Tân (剧辛) từ nước Triệu. Yên Chiêu vương phong Nhạc Nghị làm á khanh, mời người này chỉnh đốn quốc chính, thao luyện binh mã.

Thời Chiêu vương, tướng Tần Khai (秦开), khởi binh tập kích, đại phá Đông Hồ. Đông Hồ phải lui trên 1.000 dặm, kết quả vùng lãnh thổ phía đông của Yên được mở rộng. Chiêu vương cho sửa sang, xây đắp trường thành phía bắc. Trường thành này khởi đầu từ phía tây tại Tạo Dương (nay là vùng đông bắc quận Tuyên Hóa, Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc), kéo dài về phía đông tới Tương Bình (nay là phía bắc Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh).

Báo thù nước Tề

thumb|Yên Chiêu Vương

Sau khi diệt nước Tống năm 286 TCN, Tề Mẫn vương trở nên kiêu căng tự phụ, vì thế nhân dân oán ghét. Lúc bấy giờ Tề Mẫn Vương mạnh nhưng tàn bạo, kết oán với nhiều nước chư hầu. Yên Chiêu vương nói với Nhạc Nghị: "Hiện nay vua Tề vô đạo, chính là lúc ta báo thù rửa hận. Ta dự định đem toàn bộ quân dân nước Yên đánh sang Tề, khanh thấy thế nào". Nhạc Nghị cho rằng nước Tề đất rộng người đông nên đã khuyên Yên Chiêu vương liên minh với các nước khác. Yên Chiêu vương liền cử Nhạc Nghị sang nước Triệu liên lạc với Triệu Huệ Văn vương, phái người sang nước Sở và nước Ngụy điều đình phối hợp. Yên còn nhờ nước Triệu sang liên lạc với Tần. Các nước này đều ghét Tề Mẫn Vương kiêu ngạo, tàn bạo, đều nhất trí hợp tung cùng nước Yên đánh Tề.

Yên Chiêu Vương bèn đem tất cả quân, sai Nhạc Nghị làm thượng tướng quân cùng với các nước đi đánh Tề. Năm 285 TCN, liên quân đánh bại quân tề ở Tế Tây. Quân chư hầu bãi binh rút về nhưng quân của Yên dưới quyền Nhạc Nghị vẫn đuổi theo đến Lâm Tri. Tề Mẫn vương chạy vào Cử thành. Nhạc Nghị một mình ở lại đi khắp nước Tề. Các thành của Tề đều lo chống giữ. Nhạc Nghị đánh vào thành Lâm Tri lấy tất cả những đồ quý báu, của cải, đồ cúng tế của Tề, sai chở về Yên.

Yên Chiêu Vương cả mừng thân hành đến Tề Thủy để úy lạo, khao thưởng quân sĩ, phong cho Nhạc Nghị làm Xương Quốc quân, sai đem binh đánh lấy những thành của Tề chưa lấy được. Nhạc Nghị ở lại Tề trong năm năm, đánh lấy hơn bảy mươi thành của Tề, biến tất cả những thành này thành quận huyện nước Yên, chỉ còn thành Cử (nay ở huyện Cử, tỉnh Sơn Đông) và Tức Mặc (nay ở đông nam huyện Bình Độ, tỉnh Sơn Đông) là chưa chịu hàng.

Quan đại phu nước Tề ở Cử thành đã lập con của Tề vương lên làm vua, tức Tề Tương vương. Nhạc Nghị sai quân đánh thành Tức Mặc, quan đại phu thành Tức Mặc đem quân ra đánh và bị chết trận. Thành Tức Mặc không có chủ tướng, suýt rơi vào hỗn loạn. Người trong thành bèn tôn Điền Đan làm tướng. Nhạc Nghị vây khốn Cử thành và Tức Mặc thành suốt ba năm mà chưa hạ được, ở Yên có kẻ ghen tức với Nhạc Nghị nên dèm pha với Yên Chiêu vương rằng Nhạc Nghị ý muốn thu phục người nước Tề để làm Tề vương. Yên Chiêu vương rất tin Nhạc Nghị bèn trả lời: "Công lao của Nhạc Nghị không thể nói hết, cho dù ông ta có làm Tề vương thì cũng xứng đáng". Yên Chiêu vương còn cử người sang Lâm Tri gặp Nhạc Nghị, phong Nhạc Nghị làm Tề vương, Nhạc Nghị trong lòng cảm kích song dứt khoát không nhận tước vương.

Qua đời

Năm 279 TCN, Yên Chiêu vương Cơ Chức mất. Ông làm vua được 33 năm. Con ông là Yên Huệ vương lên nối ngôi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Yên Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 燕昭襄王; trị vì: 311 TCN-279 TCN), thường gọi là **Yên Chiêu Vương** (燕昭王), là vị vua thứ 39 hay 40. ## Lên ngôi trong loạn lạc Vua cha Yên
**Chiêu Tương Vương** (chữ Hán: 昭襄王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Yên Chiêu Tương Vương (thường được gọi tắt là Yên Chiêu Vương) * Tần Chiêu Tương
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Yên Chiêu Vương** (_chữ Hán_:燕昭王) có thể là: ## Danh sách *Đông Chu Yên Chiêu Tương vương, thường được gọi tắt là Yên Chiêu Vương *Ngũ đại thập quốc Yên Chiêu Vương (có thụy hiệu
**Sở Khoảnh Tương vương** (chữ Hán: 楚頃襄王, 329 TCN-263 TCN, trị vì 298 TCN - 263 TCN. Trong thời gian ở Tần, Hùng Hoành có mâu thuẫn với đại phu Hữu Tư của Tần. Năm
**Chiêu Huệ Vương hậu** (chữ Hán: 昭惠王后; Hangul: 소혜왕후; 8 tháng 9, 1437 - 27 tháng 4, 1504), còn được biết đến nhiều hơn với tên gọi **Nhân Túy Đại phi** (仁粹大妃; 인수대비), là vợ
**Tề Tương vương** (chữ Hán: 齊襄王, ? – 265 TCN), tên thật là **Điền Pháp Chương** (田法章), là vị Quốc vương thứ 7 của nước Điền Tề - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc
**Lận Tương Như** (chữ Hán: 藺相如, ?-?), thường phiên âm là **Lạn Tương Như**, là chính khách nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là người giỏi ứng xử để
**Ngụy Chiêu vương** (chữ Hán: 魏昭王, trị vì: 295 TCN – 277 TCN), tên thật là **Ngụy Sắc** (魏遫) hay **Ngụy Chính**, là vị vua thứ năm nước Ngụy - chư hầu nhà Chu thời
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Yên** (Phồn thể: 燕國; Giản thể: 燕国) là một quốc gia chư hầu ở phía bắc của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại từ thời kỳ đầu của Tây Chu qua Xuân
**Chiến tranh Yên-Tề** (284 TCN - 279 TCN), là trận chiến quy mô lớn diễn ra vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc với sự tham gia của bảy nước chư hầu, trong
**Triệu Hiếu Thành vương** (chữ Hán: 趙孝成王; trị vì: 265 TCN - 245 TCN), tên thật là **Triệu Đan** (趙丹), là vị vua thứ tám của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch
Thời kỳ 386-394 **Hậu Yên** (384 – 409) do Mộ Dung Thùy chiếm Liêu Hà thành lập nhà Hậu Yên. Năm 384 (Yên Nguyên nguyên niên, Hậu Yên), quý tộc Mộ Dung Thùy của Tiền
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Triệu Huệ Văn vương** (chữ Hán: 趙惠文王; 310 TCN - 266 TCN), còn gọi là **Triệu Văn Vương** (趙文王), tên thật là **Triệu Hà** (趙何), là vị vua thứ bảy của nước Triệu - chư
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
thumb|Vương Đạo **Vương Đạo** (chữ Hán: 王導, 276 - 339), tên tự là **Mậu Hoằng** (茂弘), nguyên quán ở huyện Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông, là đại thần, tể tướng dưới thời Đông Tấn trong
**Tề Mẫn vương** (chữ Hán: 齊湣王, trị vì 300 TCN-284 TCN hay 324 TCN-284 TCN), tên thật là **Điền Địa** (田地), là vị vua thứ sáu của nước Điền Tề - chư hầu nhà Chu
**Sở Hoài vương** (楚懷王,355 TCN- 296 TCN, trị vì: 328 TCN-299 TCN), tên thật là **Hùng Hoè** (熊槐) hay **Mị Hòe** (芈槐), là vị vua thứ 40 của nước Sở - chư hầu nhà Chu
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
Thời kỳ 386-394 **Nhà Tây Yên** (384 -394) là một quốc gia thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Hoa. ## Lập quốc Sau khi Tiền Yên bị Tiền Tần tiêu diệt,
**Trận Yên Dĩnh** (chữ Hán: 鄢郢之戰, Hán Việt: _Yên Dĩnh chi chiến_), là cuộc chiến tranh giữa hai nước chư hầu là Tần và Sở, diễn ra vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung
**Chiêu Vương** (chữ Hán: 昭王) là thụy hiệu của một số vị thiên tử và chư hầu hoặc phiên vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Trung Quốc ### Quân
**Hàn Hoàn Huệ vương** (chữ Hán: 韩桓惠王, ? - 239 TCN, trị vì: 272 TCN - 239 TCN), còn gọi là **Hàn Huệ Vương** (韓惠王) hoặc **Hàn Điệu Huệ Vương** (韩悼惠王) tên thật là **Hàn
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Yên vương Khoái** (chữ Hán: 燕王噲; trị vì: 320 TCN-318 TCN), là vị vua thứ 38 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là **Cơ Khoái**,
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
**Tề Kính vương** (chữ Hán: 齊敬王, trị vì: 264 TCN – 221 TCN), tên thật là **Điền Kiến** (田建), là vị vua thứ tám và là vua cuối cùng nước Điền Tề - chư hầu
**Vương Sĩ Chân** (chữ Hán: 王士真, bính âm: Wang Shizhen, 759 - 809), thụy hiệu **Thanh Hà Cảnh Tương vương** (清河景襄王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung
Mô phỏng dựa theo thuyết tương đối rộng về chuyển động quỹ đạo xoáy tròn và hợp nhất của hai hố đen tương tự với sự kiện [[GW150914. Minh họa hai mặt cầu đen tương
**Vương Phụ Thần** (chữ Hán: 王辅臣, ? – 1681) biệt hiệu là **Tây Lộ Mã Diêu Tử** (西路馬鷂子), là tướng lĩnh đầu thời Thanh. Ban đầu khởi binh chống Thanh rồi đầu hàng và được
**Vương Tử Văn** (sinh ngày 28 tháng 2 năm 1987 tại Tứ Xuyên, Thành Đô) là một diễn viên đoạt nhiều giải thưởng, người mẫu Trung Quốc . ## Tiểu sử Ông của Vương Tử
**Lịch sử Phú Yên** kéo dài hơn 500 năm, kể từ cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông. ## Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ### Giai đoạn tranh chấp Năm 1471,
**Sở Khảo Liệt Vương** (chữ Hán: 楚考烈王,310 TCN-238 TCN, trị vì 262 TCN-238 TCN), tên thật là **Hùng Nguyên** (熊元) hay **Mị Nguyên** (芈元), còn gọi là **Hùng Hoàn** (熊完), là vị vua thứ 42
**Tưởng Trung Chính** (; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: **Giới Thạch** (介石) nên còn gọi là **Tưởng Giới Thạch**, tên khai sinh: **Thụy Nguyên** (瑞元) là một
**Vương Thụy Lâm** (tháng 1 năm 1930 – 8 tháng 12 năm 2018) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Ông là thư ký lâu năm của Đặng Tiểu Bình và
**Vương Chiêu Quân** (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi **Minh phi** (明妃) hoặc **Minh Quân** (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" ## Phân loại Phục bích có nhiều dạng, đại để như sau: #Trường
Trong vật lý học, **thuyết tương đối hẹp** (**SR**, hay còn gọi là **thuyết tương đối đặc biệt** hoặc **STR**) là một lý thuyết vật lý đã được xác nhận bằng thực nghiệm và chấp
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
Dưới đây tường bày tuồng cải lương đã được chứng nhận trong trường kì lịch sử theo soạn giả và nhan đề. ## Bạch Mai *Anh hùng náo, hay Sở Vân cứu giá *Bao Công
**Phạm Thư** (chữ Hán: 范雎, ?-255 TCN), hay **Phạm Tuy** (范睢), tự là **Thúc** (叔), là thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lúc sinh thời ông được phong đất
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
Nằm trên băng tìm cá chép là biểu tượng gắn liền với Vương Tường. **Vương Tường** (chữ Hán: 王祥, 180 hoặc 184 – 268) là quan viên, tam công nhà Tào Ngụy thời Tam quốc,
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 張昭; [156|] - 236) là khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Chối từ tiến cử Trương Chiêu có tên tự