✨Triệu Hiếu Thành vương

Triệu Hiếu Thành vương

Triệu Hiếu Thành vương (chữ Hán: 趙孝成王; trị vì: 265 TCN - 245 TCN), tên thật là Triệu Đan (趙丹), là vị vua thứ tám của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Triệu Đan là con của Triệu Huệ Văn vương, vua thứ 7 của nước Triệu. Năm 266 TCN, Triệu Huệ Văn vương qua đời, Triệu Đan lên nối ngôi, tức Triệu Hiếu Thành vương.

Thời kỳ trị của ông chứng kiến sự suy yếu về sức mạnh quân sự và kinh tế của nước Triệu sau thất bại ở Trường Bình, không bao giờ khôi phục lại được sức mạnh như trước. Nước Triệu vì vậy sau này chỉ có thể nhờ vào liên minh hợp tung để chống lại tiến quân của Tần.

Liên minh với Tề

Hiếu Thành vương lên ngôi khi còn ít tuổi, thái hậu nhiếp chính. Lúc đó chị ông đã được gả cho Yên vương. Nhân lúc nước Triệu có tang, Tần Chiêu Tương vương đánh Triệu. Quân Tần chiếm 3 thành, lại tiếp tục tấn công. Triệu Hiếu Thành vương cầu cứu nước Tề. Tề Tương vương đòi ông phải cho em trai là Trường An quân sang làm con tin thì mới phát binh cứu.

Triệu thái hậu thương Trường An quân còn nhỏ (15 tuổi), không muốn cho đi làm con tin. Sau đó nghe lời Tả sư Xúc Long, thái hậu bằng lòng để Trường An quân sang Tề. Tề Tương vương bèn điều binh cứu Triệu. Quân Tần rút lui.

Sau đó tướng quốc nước Tề là Bình An quân Điền Đan lại cầm quân Triệu đánh Yên và Hàn, chiếm đất Trung Dương và Chú Nhân của 2 nước này.

Năm 264 TCN, thái hậu mất. Triệu Hiếu Thành vương tự mình cầm quyền chính.

Thất bại ở Trường Bình

Năm 265 TCN, Tần Chiêu Tương vương sai Vương Hột mang quân đánh Hàn, bao vây quận Thượng Đảng. Tướng giữ Thượng Đảng là Phùng Đình chống cự không nổi phải cố thủ trong thành. Quân Tần bao vây Thượng Đảng, cắt đứt đường huyết mạch thông sang núi Thái Hàng, cô lập hoàn toàn Thượng Đảng. Năm 262 TCN, Phùng Đình liệu thế không giữ được, bèn sai sứ đến gặp Triệu Hiếu Thành vương dâng thư cho Triệu Hiếu Thành vương, xin mang Thượng Đảng theo Triệu.

Triệu Báo can ông không nên nhận, chỉ ra rằng đó là ý Phùng Đình muốn cho Tần chĩa mũi nhọn từ Hàn sang Triệu. Triệu Hiếu Thành vương bèn cho mời Bình Nguyên quân hỏi ý, Bình Nguyên quân khuyên ông nên nhận. Triệu Hiếu Thành vương tin theo, sai Bình Nguyên quân đến nhận đất, phong cho Phùng Đình ba vạn hộ, gọi là Hoa Dương quân, vẫn giữ chức thái thú, mười bảy viên huyện lệnh đều được phong làm quan nước Triệu nhưng lại không cử binh đi cứu Phùng Đình. Phùng Đình cầu cứu nhưng suốt 2 tháng, Triệu Hiếu Thành vương mới cử Liêm Pha đi cứu thì Vương Hột đã đánh vỡ Thượng Đảng. Phùng Đình mang dân chạy sang nương nhờ nước Triệu. Liêm Pha đi đến ải Trường Bình thì gặp quân Tần.

Liêm Pha ra trận thất lợi, bèn cố thủ không ra nữa. Triệu Hiếu Thành vương thấy quân Triệu yếu thế, sai Trịnh Chu sang giảng hoà với Tần nhưng vua Tần không cho.

Sau Tần Chiêu Tương vương dùng kế ly gián, sai sứ đến nước Triệu,phao tin rằng Tần chỉ sợ con Triệu Xa là Triệu Quát, không sợ Liêm Pha. Triệu Hiếu Thành vương nghe tin đồn, nghĩ rằng Liêm Pha nhát gan, định cho Triệu Quát ra thay Liêm Pha. Lạn Tương Như can nhưng Triệu Hiếu Thành vương không nghe, bãi chức Liêm Pha, phong Triệu Quát làm tướng. Mẹ Quát thấy vậy cũng can ngăn nhưng ông vẫn cự tuyệt.

Tần Chiêu Tương vương nghe tin cũng bí mật phái Bạch Khởi ra thay Vương Hột, quân Triệu không ai biết. Bạch Khởi dùng kế giả thua để nhử, Triệu Quát đắc chí, mang đại quân ra truy kích, trong khi Bạch Khởi điều hai cánh quân tinh nhuệ ra đánh tập hậu, cắt đôi quân Triệu.

Triệu Quát phải đóng quân giữa chỗ rừng núi, dựng tạm hào luỹ tự vệ, chờ viện binh. Vua Tần sai chặn đường tiến quân khiến Triệu không thể đem quân cứu viện.

Năm 260 TCN, quân Triệu bị vây ngặt, hết lương, quân sĩ giết hại lẫn nhau để ăn. Triệu Quát mấy lần xua quân ra đánh phá nhưng thất bại, bèn liều mạng dẫn một cánh quân tinh nhuệ đi phá vây, bị quân Tần dùng cung nỏ bắn trúng. Triệu Quát cùng cánh quân Triệu đều bị tử trận. Quân Triệu thất bại, đầu hàng, sau đều bị Bạch Khởi giết hết.

Liên minh chống Tần

Bị tổn thất nhân sự nặng nề, nước Triệu chấn động. Triệu Hiếu Thành vương hối hận không nghe lời Bình Dương quân Triệu Báo.

Bạch Khởi muốn thừa thắng tiến tới hạ thành Hàm Đan. Triệu Hiếu Thành vương sợ hãi, sai sứ sang Tần xin cắt đất cầu hòa. Đúng lúc đó thừa tướng nước Tần là Phạm Thư lại ghen ghét công lao của Bạch Khởi, nên nói với Tần Chiêu Tương vương chấp nhận lui quân giảng hòa với điều kiện nước Triệu dâng hiến sáu thành. Triệu vương chấp nhận nộp 6 thành để tranh thủ thời gian hoà hoãn, cho gọi lại Liêm Pha làm tướng, chỉnh đốn lại binh mã, củng cố quốc phòng.

Sau khi lui quân, vua Tần lại ân hận khi nghe Bạch Khởi phân tích vì để lỡ thời cơ diệt nước Triệu, lại ép Bạch Khởi đi đánh Triệu. Bạch Khởi cho rằng cơ hội đã qua không thể đánh, nên bị Phạm Thư gièm pha và bị xử tử. Vua Tần vẫn muốn đánh Triệu, lại sai Vương Lăng cầm quân đi.

Năm 258 TCN, quân Tần tiến sang vây hãm kinh thành nước Triệu là Hàm Đan. Nước Triệu nguy cấp, bèn sai sứ cầu cứu nước Ngụy, Tề, còn Bình Nguyên quân Triệu Thắng đích thân sang Sở đề nghị Sở Khảo Liệt vương hợp tung chống Tần. Do sự thuyết phục của người khách Mao Toại (dưới quyền Bình Nguyên quân), Sở Khảo Liệt vương bằng lòng hợp tung, cử Xuân Thân quân Hoàng Yết đi cứu. Cùng lúc, Ngụy An Ly vương cũng cử Tấn Bỉ mang quân cứu Triệu. Tuy nhiên cả hai cánh quân Sở, Ngụy đều chỉ hư trương thanh thế không giao chiến với quân Tần. Riêng nước Tề, khi đó dưới thời Tề vương Kiến, thế nước đã suy yếu, lại dùng chính sách liên hoành với Tần, giao hảo với nước Tần không chịu hưởng ứng hợp tung với chư hầu.

Em vua Ngụy là công tử Ngụy Vô Kỵ hăng hái hưởng ứng hợp tung, lấy trộm binh phù của vua anh Ngụy An Ly vương, ra mặt trận lừa giết tướng Tấn Bỉ đoạt lấy quân đội và dẫn quân đánh úp quân Tần. Tướng Tần là Vương Lăng thua to phải rút về nước.

Ngụy Vô Kỵ phạm tội trái lệnh vua Ngụy không dám về nước, Triệu Hiếu Thành vương giữ lại làm thượng khách, đối xử rất hậu để tạ ơn. Ông lại cắt đất Linh Khâu cho Hoàng Yết nước Sở để cảm ơn phát binh.

Năm 256 TCN, Triệu Hiếu Thành vương sai Nhạc Thừa (con Nhạc Nghị) và Khánh Xá tấn công nước Tần nhưng bị tướng Tần là Lý Tín đánh tan. Trong năm đó liên tiếp thái tử cùng các đại thần Bình Nguyên quân Thắng và Trịnh An Bình qua đời.

Năm 247 TCN, quân Tần vây hãm kinh đô Đại Lương của nước Ngụy. Vua Ngụy sai sứ đến mời Ngụy Vô Kỵ về nước trao binh quyền. Theo lời kêu gọi của Ngụy Vô Kỵ, Triệu Hiếu Thành vương cùng các nước Sở, Hàn, Yên đều sai tướng đem quân hợp sức cứu Ngụy. Tín Lăng quân cầm quân cả năm nước đánh tan quân Tần ở Hà Ngoại. Tướng Tần là Mông Ngao bỏ chạy. Nguỵ Vô Kỵ thừa thắng đuổi quân Tần đến ải Hàm Cốc, chẹn đường quân Tần, quân Tần không dám ra.

Chiến tranh với Yên và Hung Nô

Năm 251 TCN, Yên vương Hỉ sai tướng quốc Lật Phúc đi sứ nước Triệu, tặng Triệu Hiếu Thành vương 500 lạng vàng để kết liên minh cùng chống Tần. Khi trở về, Lật Phúc khuyên vua Yên nên đánh chiếm nước Triệu vì trai tráng nước Triệu đã chết gần hết trong trận Trường Bình, chỉ còn trẻ con và người già yếu.

Yên vương Hỷ không nghe lời can của Nhạc Can, chia quân làm 2 đường, sai Lật Phúc tấn công đất Cao, còn Khánh Tần và Nhạc Gian đánh đất Đại.

Triệu Hiếu Thành vương sai Liêm Pha và Nhạc Thừa ra chống cự. Liêm Pha đánh tan quân Yên, giết chết Lật Phúc, còn Nhạc Thừa cũng phá Khánh Tần ở đất Đại, bắt sống Khánh Tần và Nhạc Gian.

Năm 250 TCN, quân Triệu thừa thắng tiến sang đất Yên. Liêm Pha truy đuổi 500 dặm, tiến vào nước Yên, vây hãm Kế thành. Yên vương Hỷ sợ hãi, cử Tương Cừ làm tướng quốc ra điều đình với quân Triệu. Tương Cừ nói với Liêm Pha xin giảng hòa, Liêm Pha mới rút quân.

Năm 249 TCN, Triệu Hiếu Thành vương lại sai Nhạc Thừa vây đánh nước Yên. Sang năm 248 TCN, vua Triệu lại sai Nhạc Thừa đánh Yên, và đến năm sau lại hợp binh với nước Ngụy cùng đánh Yên. Yên vương Hỷ phải cắt đất xin giảng hòa, quân Triệu mới rút lui.

Năm 247 TCN, Yên vương Hỷ và Triệu Hiếu Thành vương đổi đất cho nhau: Yên giao cho Triệu đất Cát, Vũ Dương và Bình Thư, còn Triệu giao cho Yên đất Long Đoái, Phân Môn, Lân Nhạc.

Tại phía bắc, Triệu Hiếu Thành vương dùng Lý Mục làm tướng trấn giữ chống Hung Nô. Nhờ tài năng của Lý Mục, quân Triệu diệt hơn 10 vạn quân Hung Nô, phá Đan Lam, phá Đông Hồ. Đất đai phía bắc nước Triệu được mở rộng.

Qua đời

Sau khi thái tử mất năm 251 TCN, Triệu Hiếu Thành vương lập con thứ là Yển lên làm thái tử.

Năm 245 TCN, trong lúc quân Tần tấn công nước Triệu, vừa chiếm đất Tấn Dương thì Triệu Hiếu Thành vương qua đời. Ông làm vua được 21 năm. Thái tử Triệu Yển lên nối ngôi, tức là Triệu Điệu Tương vương.

Trong văn hóa

Triệu Hiếu thành vương được tái hiện trong tiểu thuyết võ hiệp Tầm Tần Ký của nhà văn Huỳnh Dị và được chuyển thể thành nhiều thể loại khác nhau như truyện tranh hay phim ảnh (đặc biệt là bộ phim cỗ máy thời gian do Cổ Thiên Lạc thủ vai). Nhìn chung ông được mô tả là vị vua nhu nhược, u mê, luôn nghe lời gian thần hãm hại hiền tài và luôn có những quyết định sai lầm. Đặc biệt, ông được mô tả là có tình cảm "đặc biệt" với gian thần Triệu Mộc.

Trong ngoại truyện của manga Kingdom của tác giả Hara Yasuhisa, Triệu Hiếu Thành Vương đã cử Lý Mục đến Nhạn Môn để chống Hung Nô. Khi biết Lý Mục không chịu tấn công mà chỉ thực hiện chiến lược "vườn không nhà trống", cố thủ không giao chiến thì lập tức cách chức và triệu ông về. Khi hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng (quân Hung Nô tàn phá Nhạn Môn), Hiếu Thành Vương lại triệu Lý Mục về trấn thủ và vào chính truyện Kingdom thì Hiếu Thành Vương chết và Lý Mục đã tiêu diệt toàn bộ 10 vạn quân Hung Nô. Liêm Pha đã so sánh tiên vương với con trai là Điệu Tương vương và nhận định ông là "người tốt".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triệu Hiếu Thành vương** (chữ Hán: 趙孝成王; trị vì: 265 TCN - 245 TCN), tên thật là **Triệu Đan** (趙丹), là vị vua thứ tám của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Hiếu Thành Vương** (chữ Hán: 孝成王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Viễn Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Thương Hiếu Thành Vương *Chiến Quốc Triệu
**Triệu Điệu Tương vương** (chữ Hán: 趙悼襄王, trị vì 244 TCN - 236 TCN), tên thật là **Triệu Yển** (趙偃), là vị vua thứ chín của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Triệu Huệ Văn vương** (chữ Hán: 趙惠文王; 310 TCN - 266 TCN), còn gọi là **Triệu Văn Vương** (趙文王), tên thật là **Triệu Hà** (趙何), là vị vua thứ bảy của nước Triệu - chư
**Hiếu Thành Vương** (mất 742, trị vì 737-742) là người trị vì thứ 34 của vương quốc Tân La. Ông là con trai thứ hai của Thánh Đức Vương và vương hậu Chiếu Đức (Sodeok).
**Thánh Vương** (chữ Hán: 聖王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và vài nhân vật lịch sử khác. ## Danh sách * Cơ Tử Triều Tiên Thọ Thánh Vương * Cơ Tử
**Thành Vương** (chữ Hán: 成王) là tước hiệu hoặc thụy hiệu của một số vị quân chủ, phiên vương, chư hầu, quận vương và thân vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong
**Vũ Thành Vương** (_chữ Hán_ 武成王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ hoặc tướng lĩnh quan lại ở khu vực Đông Á thời phong kiến. ## Thụy hiệu *
**Trung Thành Vương** (_chữ Hán_:忠成王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số nhân vật lịch sử thời phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Thụy hiệu *Tiền Triệu Lương Trung Thành Vương
**Đông Thành Vương** (_chữ Hán_ 東城王) là thụy hiệu hoặc phong hiệu của một số nhân vật lịch sử. ## Danh sách * Bách Tế Đông Thành vương * Việt Nam Tiền Lê triều Đông
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
**Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_ 孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ nhà Cao Ly trong lịch sử bán đảo Triều Tiên, thông thường những vị quân chủ này do thụy hiệu
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后; Hangul: 왕태후; tiếng Anh: _Dowager Queen_ hoặc _Queen Mother_) là một tước vị dành cho Vương hậu của các Quốc vương đã qua đời, hoặc mẹ đẻ (đôi khi
**Triệu Quát** (chữ Hán: 赵括; ? - 260 TCN) là đại tướng nước Triệu thời Chiến Quốc, con trai Mã Phục Quân Triệu Xa, người đời gọi là Mã Phục Tử. ## Tiểu sử ###
**Hiếu Ý vương hậu** (chữ Hán: 孝懿王后, Hangul: 효의왕후, 5 tháng 1 năm 1754 - 10 tháng 4 năm 1821) là Vương hậu duy nhất của Triều Tiên Chính Tổ trong lịch sử Triều Tiên.
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Triệu vương** (趙王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và thân vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Triệu nhà Chu. ## Việt Nam ### Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Nhân Thánh Vương hậu** (chữ Hán: 仁聖王后; Hangul: 인성왕후; 7 tháng 10, 1514 - 6 tháng 1, 1578), hay **Cung Ý Đại phi** (恭懿大妃) là vương phi của Triều Tiên Nhân Tông, vị quân chủ
**Trinh Thánh Vương hậu** (chữ Hán: 貞聖王后; Hangul: 정성왕후, 12 tháng 1 năm 1693 - 3 tháng 4 năm 1757) là Vương phi đầu tiên của Triều Tiên Anh Tổ. ## Cuộc đời Bà là
**Triều Tiên Thành Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:朝鮮成孝大王) có thể là những vị quân chủ nhà Triều Tiên dưới đây: ## Danh sách * Triều Tiên Thành Hiếu Đại Vương (gọi tắt theo thụy hiệu
**Thánh Vương**, **Minh Vương** hay **Thánh Minh Vương** (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế
**Triều Tiên Chương Hiếu Đại Vương** trong Tiếng Việt có thể là những vị quân chủ nhà Triều Tiên sau: ## Danh sách * Triều Tiên Chương Hiếu Đại Vương **朝鮮章孝大王** (truy tôn, gọi tắt
**Thành Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:成孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Thành Hiếu Đại Vương (gọi tắt
**Hiếu Tĩnh Vương** (_chữ Hán_:孝靖王 hoặc 孝静王) trong Tiếng Việt là thụy hiệu của một số vị phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ##
**Hiếu Vũ Vương** (_chữ Hán_:孝武王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Lưu Tống Vũ Lăng
**Kính Thành Vương hậu** (Hangul: 경성왕후, chữ Hán: 敬成王后; ? – 1086), là vương hậu của vua Cao Ly Đức Tông Vương Khâm. Bà là con gái của Cao Ly Hiển Tông với Nguyên Thuận
**Hiếu Định Vương Phi** (_chữ Hán_:孝定王妃) là thụy hiệu của một số vị vương phi trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Việt Nam Quảng Nam
**Trang Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:莊孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Triều Tiên thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Trang Hiếu Đại Vương (gọi tắt
**Hiển Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:顯孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử bán đảo Triều Tiên thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Hiển Hiếu Đại Vương
**Chương Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:章孝大王 hoặc 彰孝大王) trong Tiếng Việt là thụy hiệu của một số vị quân chủ ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Triều Tiên Chương
**Nhân Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:仁孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Nhân Hiếu Đại Vương
**Nguyên Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:元孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Nguyên Hiếu Đại Vương
**Quang Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:光孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Quang Hiếu Đại Vương (gọi tắt
**Hiếu Mẫn Vương** (_chữ Hán_:孝閔王 hoặc 孝敏王 hay 孝愍王) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử trọng yếu ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách Hiếu Mẫn Vương
**Chu Thành Vương** trong tiếng Việt có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Chu Thành vương (周成王) Cơ Tụng: vị thiên tử thứ 2 của nhà Tây Chu. *Chu Thành
**Minh Hiếu Đại Vương** (_chữ Hán_:明孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Cao Ly Minh Hiếu Đại Vương (gọi tắt
**Văn Thánh Vương** (_chữ Hán_ 文聖王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Viễn Đông. ## Danh sách *Cơ Tử Triều Tiên Văn Thánh Vương Cơ Tử (còn gọi là
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Ngụy Huệ Thành vương** (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là **Ngụy Huệ vương** (魏惠王) hay **Lương Huệ vương** (梁惠王), tên thật là
**Yên vương Hỉ** (chữ Hán: 燕王喜; trị vì: 254 TCN-222 TCN), tên thật là **Cơ Hỉ**, là vị vua thứ 44, còn Khánh Tần và Nhạc Gian đánh đất Đại. Nước Triệu sai Liêm Pha
**Tề Kính vương** (chữ Hán: 齊敬王, trị vì: 264 TCN – 221 TCN), tên thật là **Điền Kiến** (田建), là vị vua thứ tám và là vua cuối cùng nước Điền Tề - chư hầu
**Hiếu Cung Vương** (mất 912, trị vì 897–912) là quốc vương thứ 52 của Tân La. Ông là con trai ngoài giá thú của Hiến Khang Vương và phu nhân Uimyeong. Ông kết hôn với
**Bột Hải Nhân Tông** (trị vì 794 - 795), còn được gọi bằng tên là **Đại Hoa Dư** (대화여, 大華與, Dae Hwa-yeo), là người trị vì thứ năm của vương quốc Bột Hải. ## Thời
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Vương Lăng** (chữ Hán: 王陵; ? - ?) là tướng nước Tần cuối thời kỳ Chiến Quốc. ## Binh nghiệp Năm 260 TCN, quân Tần do Bạch Khởi chỉ huy thắng lớn ở Trường Bình,
**Nguyên Thánh Vương** (trị vì 785-798, mất năm 798) là vị quốc vương thứ 38 của Tân La. Ông là hậu duệ đời thứ 12 của Nại Vật ni sư kim và có bà cố
**Chu Thành vương** (chữ Hán: 周成王; 1065-1020 TCN), là vị Thiên tử thứ hai của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 21 năm, từ năm 1042 TCN đến năm 1021
**Hiếu Hiển Vương hậu** (27 tháng 4 năm 1828 - 18 tháng 10 năm 1843) (왕후) là vương phi của Triều Tiên Hiến Tông, quốc vương thứ 24 của nhà Triều Tiên. Bà thuộc dòng