✨Ngụy Huệ Thành vương

Ngụy Huệ Thành vương

Ngụy Huệ Thành vương (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là Ngụy Huệ vương (魏惠王) hay Lương Huệ vương (梁惠王), tên thật là Ngụy Oanh hay Ngụy Anh (魏罃), là vị vua thứ ba của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Ông là con trưởng của Ngụy Vũ hầu, vua thứ hai của nước Ngụy.

Tranh giành ngôi vua

Năm 370 TCN, Ngụy Vũ hầu qua đời mà vẫn chưa lập thái tử, khiến cho các vị công tử tranh giành quyết liệt, nước Ngụy rối loạn. Tháng 7 năm đó, Ngụy Oanh đem quân đánh công tử Hoãn (公子緩), Hoãn chạy sang nước Triệu. Triệu Thành hầu liên kết với Hàn Ý hầu đem quân đánh Ngụy Oanh để đưa Ngụy Hoãn về nước. Năm 369 TCN, Ngụy Oanh thất bại trong trận Trọc Trạch trước liên quân Hàn-Triệu và bị vây khốn. Tuy nhiên sau đó giữa Triệu và Hàn nảy sinh bất hoà. Triệu Thành hầu muốn giết Ngụy Oanh rồi đưa công tử Hoãn làm vua, rồi ép cắt đất chia cho Hàn và Triệu nhưng Hàn Ý hầu cho rằng làm thế sẽ bị đàm tiếu là tàn bạo, lấy đất của Ngụy sẽ mang tiếng là tham lam, nhưng Triệu hầu không nghe. Rốt cuộc cả Triệu và Hàn đều lui binh, để lại một mình công tử Hoãn. Ngụy Oanh chớp lấy thời cơ phản công, giết Ngụy Hoãn, rồi tự lập làm vua, tức Ngụy Huệ Thành hầu (hoặc Ngụy Huệ hầu).

Sử ký cho rằng: Ngụy Huệ Thành hầu sở dĩ thân không mất, nước không bị chia cắt, là vì hai nước kia mưu sự bất hòa. Nếu làm theo kế của một trong hai nước thì Ngụy đã bị phân chia. Nên mới nói: "Vua mất mà chưa lập con đích, nước có thể bị phá."

Năm 368 TCN, không rõ nguyên nhân tại sao, tướng quốc nước Ngụy là Vương Thác trốn sang nước Hàn, Huệ hầu lại phong cho Công Thúc Tọa chú mình làm tướng quốc.

Thiên đô Đại Lương

Tháng 4 năm 361 TCN, Ngụy Huệ hầu muốn hùng bá Trung Nguyên bèn thiên đô từ An Ấp sang Đại Lương. Từ đó nước Nguỵ còn được gọi là nước Lương.

Năm 360 TCN, Công Thúc Tọa sắp mất, thấy có một người khách là Thương Ưởng có tài bèn tiến cử lên Huệ hầu nhưng ông không dùng, sau đó Thương Ưởng trốn sang nước Tần, được trọng dụng.

Chiến tranh với các nước

Năm 368 TCN, Ngụy Huệ hầu cử Công Thúc Tọa đem quân giao chiến với nước Hàn và nước Triệu ở Quái Bắc, bắt tướng Triệu là Nhạc Lộ. Ngụy Huệ hầu vui mừng, thân hành ra đón tiếp Công Thúc Tọa, thưởng cho mẫu đất bổng lộc.

Năm 367 TCN, quân Ngụy thất bại trước quân Tề ở Ngã Quân. Năm 365 TCN, Ngụy Huệ hầu cùng Hàn Ý hầu hội minh ở Trạch Dương. Năm sau, ông đem quân đánh nước Tống, chiếm đất Nghi Đài.

Năm 361 TCN, quân Ngụy đánh bại quân Hàn ở đất Quái. Cùng năm đó, Ngụy và Tần phát sinh chiến tranh, quân Tần đánh thắng quân Ngụy ở Thiếu Lương, bắt sống tướng Ngụy là Công Tôn Tọa. Năm sau, Ngụy Huệ hầu đem quân đánh Triệu, chiếm đất Bì Lao.

Năm 357 TCN, Ngụy Huệ hầu cùng Triệu Thành hầu hội minh ở đất Hạo. Sau đó ông cùng vua các nước Vệ, Tống và Trịnh vào triều kiến thiên tử nhà Chu.

Năm 356 TCN, Ngụy Huệ hầu đem quân đánh nước Triệu, bao vây Hàm Đan, Sở Tuyên vương sai Cảnh Xá cứu Triệu, đánh lui quân Ngụy. Cùng năm đó, ông cùng Tần Hiếu công hội minh ở đất Đỗ Bình rồi đem quân đánh Hoàng Trì nước Tống, buộc nước Tống phải thần phục.

Năm 355 TCN, Triệu đem quân tấn công nước Vệ, Huệ Thành hầu sai quân cứu Vệ, đánh thắng quân Triệu, rồi kéo 10 vạn binh bao vây Hàm Đan, tháng 10 năm đó, Hàm Đan thất thủ, Triệu Thành hầu bỏ chạy. Nước Tề thấy vậy đem quân cứu Triệu, Huệ Thành hầu sai Bàng Quyên ra giao chiến. Tướng Tề là Điền Kỵ bèn đánh Đại Lương để cứu Triệu, buộc Bàng Quyên phải bỏ việc tấn công Triệu để quay về cứu Đại Lương, nhưng bị quân Điền Kỵ đánh đại ở trận Quế Lăng (桂陵之戰), Bàng Quyên bị bắt. Tôn Tẫn nể tình bạn học với Bàng Quyên nên thả về.

Năm 352 TCN, Ngụy liên minh với Hàn đánh bại liên quân các nước Tề, Tống và Vệ. Tề Uy vương phải nhờ nước Sở xin với vua Ngụy cho hoãn binh. Sau đó Ngụy và Triệu giảng hoà.

Tới năm 341 TCN, Ngụy Huệ hầu lại sai Bàng Quyên đem quân đánh Hàn, Hàn cầu cứu Tề. Tướng Tề là Tôn Tẫn dùng kế rút bếp, cứ ngày hôm sau thì lại cho làm ít bếp ở doanh trại hơn so với ngày hôm trước, ngày đầu 10 vạn cái, ngày hôm sau còn 5 vạn cái và đến hôm sau nữa còn 3 vạn cái, khiến Bàng Quyên tưởng rằng quân Tề vì sợ hãi đã bỏ trốn quá nửa, vì vậy Bàng Quyên bỏ bộ binh, chỉ mang theo khinh binh đuổi theo. Về phần mình, Tôn Tẫn cho quân phục ở đường Mã Lăng (馬陵), quân Ngụy lọt vào ổ mai phục và tan vỡ, Bàng Quyên bị giết. Thái tử Thân nước Ngụy cũng bị bắt.

Năm 335 TCN, Ngụy Huệ hầu cùng Tề Tuyên vương hội ở đất A Nam. Năm sau, ông cùng nước Tề hội ở đất Chân.

Xưng vương, hợp tung chống Tần

Năm 344 TCN, Ngụy Huệ hầu hội 12 nước chư hầu ở Phùng Trạch, sai sứ xin Chu Hiển Vương cho mình đem quân đánh nước Tần. Quân Tần chống không nổi, phải sai Thương Ưởng cầu hoà.

Năm 339 TCN, Tần Hiếu công sai Thương Ưởng đánh Ngụy. Huệ Thành hầu sai công tử Ngang ra ứng chiến. Khi quân Ngụy đến nơi, Ưởng mời công tử Ngang đến uống rượu ăn thề bãi binh. Công tử Ngang đến, lập tức bị quân Tần bắt. Ngụy Huệ hầu cả sợ, sai sứ đến giảng hòa, cắt đất Tây Hà (nay thuộc Thiểm Tây) cho Tần.

Năm 334 TCN, Ngụy Huệ hầu và vua Hàn đến yết kiến Tề Uy vương, tôn vua Tề làm vương. Tề Uy vương không muốn xưng vương một mình, bèn mời vua Ngụy cũng xưng vương, sử gọi là Hội Từ châu tương vương. Từ đó nước Ngụy xưng vương hiệu, gọi là Ngụy Huệ Thành vương (hoặc Ngụy Huệ vương) Sở Uy vương nghe vậy, thấy xưa nay chỉ có nước Sở là chư hầu xưng vương, mà nay Tề và Ngụy cũng dám xưng vương, thì nổi giận, năm 333 TCN đích thân đem quân đánh bại nước Tề.

Năm 330 TCN, Công Tôn Diễn nước Tần mang quân giao chiến với quân Ngụy ở Điêu Dương, đánh bại quân Ngụy, bắt được tướng Ngụy là Long Giả và giết hơn 4 vạn quân Ngụy. Ngụy Huệ vương phải cắt đất Tấn Âm cho nước Tần để cầu hòa.

Năm 329 TCN, Tần Huệ Văn vương ngày càng trọng dụng Trương Nghi, tướng quốc nước Tần là Công Tôn Diễn không còn được tin tưởng, bỏ Tần trốn sang Ngụy, Ngụy Huệ vương phong làm tướng quốc. Diễn lại đề xướng kế sách hợp tung, kêu gọi các chư hầu phía đông nên cùng liên kết để chống lại nước Tần.

Năm 328 TCN, hàng tướng của Ngụy là công tử Ngang mang quân đánh Ngụy, chém 8 vạn quân Ngụy. Ngụy Huệ vương sợ sức mạnh của nước Tần, phải dâng 15 huyện thuộc Thượng Quận cho nước Tần. Cùng năm đó, Huệ vương cùng vua Tần hội ở đất Ứng. Cùng năm đó, ông đem quân đánh nước Sở, đánh thắng quân Sở ở Hình Sơn.

Năm 327 TCN, Tần Huệ Văn vương sai Trương Nghi đi sứ nước Ngụy, Trương Nghi đề nghị Ngụy cùng Tần đổi đất cho nhau: Ngụy cho Tần đất Thượng Quận, đổi lại nước Tần trao Bồ Dương, Khúc Ốc cho Ngụy.

Năm 325 TCN, Ngụy Huệ vương hội với Hàn Uy hầu tại Sa Cối, tôn vua Hàn làm vương, tức Hàn Tuyên Huệ vương.

Năm 325 TCN, vua Tần xưng vương, tức Tần Huệ Văn vương, sai sứ sang liên minh với nước Tề và nước Sở. Trước tình hình đó, Công tôn Diễn và Ngụy Huệ vương hội kiến với vua các nước Hàn, Triệu, Yên và Trung Sơn. Tại cuộc hội kiến này, 3 nước Yên, Triệu và Trung Sơn chính thức xưng vương và được Hàn, Ngụy công nhận. Đó là sự kiện "5 nước cùng xưng vương" ("Ngũ quốc tương vương"), tiến hành hợp tung, thực hiện một mặt trận liên hợp để chống khối liên minh của Tần.

Cuối năm 323 TCN, Sở Hoài vương mang quân tấn công phía nam nước Ngụy. Tướng Sở là Chiêu Dương đánh bại quân Ngụy ở Tương Lăng, chiếm đóng 8 ấp của Ngụy.

Năm 322 TCN, Trương Nghi muốn phá bỏ hợp tung bèn sang Ngụy, khuyên Huệ vương liên minh với Tần. Bấy giờ, Ngụy Huệ vương đã ngán ngại dụng binh, bèn trọng dụng Trương Nghi, phong làm tướng quốc. Công Tôn Diễn trốn sang nước Hàn.

Sau đó Huệ vương phát hiện mưu đồ của Tần nên không liên minh nữa. Tần Huệ Văn vương bèn đem quân đánh Ngụy. Năm 319 TCN, Huệ vương mời Công Tôn Diễn trở về làm tướng quốc.

Qua đời

Về năm mất của Ngụy Huệ vương, sử sách ghi chép khác nhau. Theo Sử ký, thiên Ngụy thế gia thì Ngụy Huệ vương mất năm 335 TCN, thọ 66 tuổi, ở ngôi 36 năm. Còn theo Chiến Quốc sách thì năm mất của ông là 319 TCN, thọ 80 tuổi. Sau khi Huệ vương qua đời, con trai ông là Ngụy Tự nối ngôi, tức Ngụy Tương Ai vương. Sử ký không cho rằng ông xưng vương hiệu khi còn sống, mà người hội xưng vương ở Từ Châu là Ngụy Tương vương.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngụy Huệ Thành vương** (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là **Ngụy Huệ vương** (魏惠王) hay **Lương Huệ vương** (梁惠王), tên thật là
**Huệ Thành Vương** (_chữ Hán_:惠成王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Chiến Quốc Ngụy Huệ Thành
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
**Ngụy Tương vương** (chữ Hán: 魏襄王, trị vì: 318 TCN – 296 TCN), hay **Ngụy Tương Ai vương**, tên thật là **Ngụy Tự** (魏嗣) hay **Ngụy Hách** (魏赫), là vị vua thứ tư của nước
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Triệu Huệ Văn vương** (chữ Hán: 趙惠文王; 310 TCN - 266 TCN), còn gọi là **Triệu Văn Vương** (趙文王), tên thật là **Triệu Hà** (趙何), là vị vua thứ bảy của nước Triệu - chư
**Triệu Hiếu Thành vương** (chữ Hán: 趙孝成王; trị vì: 265 TCN - 245 TCN), tên thật là **Triệu Đan** (趙丹), là vị vua thứ tám của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Hội Từ Châu tương vương** (chữ Hán: 會徐州相王, _Hội minh xưng vương ở Từ châu_), là một sự kiện xảy ra vào năm 334 TrCN trong thời kỳ Chiến Quốc, khi vua Ngụy và vua
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Lương Vương** (_chữ Hán_:梁王 hoặc 凉王 hay 良王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông dưới chế độ quân chủ. ## Thụy hiệu Lương
**Huệ Thi** (惠施) (370 TCN-310 TCN) là 1 nhà triết học cổ đại Trung Quốc thuộc phái Danh gia. Ông từng làm tướng quốc cho Ngụy Huệ Thành vương và là người nổi tiếng hiểu
**Thành Vương** (chữ Hán: 成王) là tước hiệu hoặc thụy hiệu của một số vị quân chủ, phiên vương, chư hầu, quận vương và thân vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong
**Tống Dịch Thành quân** (chữ Hán: 宋剔成君; trị vì: 375 TCN(?)-335 TCN), tên thật là **Tử Đới Hỉ** (子戴喜), là vị vua thứ 33 của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Trương Nghi** (chữ Hán: 張儀, 373 TCN - 310 TCN), tước hiệu là **Vũ Tín Quân** (武信君), người đời tôn xưng là **Trương Tử** (張子), là một nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Huệ Vương** (chữ Hán: 惠王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ hoặc phiên vương trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Thụy hiệu # Thương Ân Huệ Vương
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Võ Di Nguy** hay **Vũ Di Nguy** (Chữ Hán: 武彝巍; 1745 - 1801) là một tướng lãnh dưới quyền chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp **Võ Di Nguy** là người huyện
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Huệ Hầu** (chữ Hán: 惠侯) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Chu Yên Huệ hầu * Tây Chu Hoàng Huệ hầu Hoàng Nghi * Tây Chu Hoàng
**Năm nước xưng vương** (chữ Hán: 五国相王, Hán Việt: _Ngũ quốc tương vương_), là một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Các
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Vương Tư Chính** (chữ Hán: 王思政), không rõ năm sinh năm mất, người huyện Kì, Thái Nguyên , là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Ngụy Vũ hầu** (chữ Hán: 魏武侯; trị vì: 395 TCN - 370 TCN), là vị vua thứ hai của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Tần vương** (秦王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và chư hầu vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Tần – nhà Tần. ## Xuân Thu–Chiến Quốc Các quân chủ nước
**Thôi Huệ Cảnh** hay **Thôi Tuệ Cảnh** (chữ Hán: 崔慧景; 438—500), tự **Quân Sơn**, người phía đông Vũ Thành, Thanh Hà; là tướng lĩnh nhà Lưu Tống và nhà Nam Tề thời Nam Bắc triều
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Ngụy Nhiễm** (chữ Hán: 魏冉, bính âm: _Wèi Rǎn_,?-?), hay còn được biết với tước hiệu **Nhương hầu** (穰侯), là tướng quốc nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Sở Hoài vương** (楚懷王,355 TCN- 296 TCN, trị vì: 328 TCN-299 TCN), tên thật là **Hùng Hoè** (熊槐) hay **Mị Hòe** (芈槐), là vị vua thứ 40 của nước Sở - chư hầu nhà Chu
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Hàn Tuyên Huệ vương** (chữ Hán: 韓宣惠王; trị vì: 332 TCN – 312 TCN), hay **Hàn Uy hầu** (韓威侯), tên là **Hàn Khang**, là vị vua thứ 7 của nước Hàn - chư hầu nhà
**Tần Huệ Văn hậu** (chữ Hán: 秦惠文后, ? - 305 TCN) là một Vương hậu nước Tần thời Chiến Quốc, chính thất của Tần Huệ Văn vương, mẹ đẻ của Tần Vũ vương. ## Tiểu
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Hàn Hoàn Huệ vương** (chữ Hán: 韩桓惠王, ? - 239 TCN, trị vì: 272 TCN - 239 TCN), còn gọi là **Hàn Huệ Vương** (韓惠王) hoặc **Hàn Điệu Huệ Vương** (韩悼惠王) tên thật là **Hàn
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là